Công trình nghiên cứu

Bản tin Dược liệu số 2/2018: Nghệ

HOẠT TÍNH CHỐNG OXY HÓA CỦA NGHỆ (CURCUMA LONGA)

R. Selvam và cs.

J Ethnopharmacol. 1995 Jul 7;47(2):59-67

Các protein chống oxy hóa trong nghệ (TAP) đã được phân lập từ dịch chiết nước của nghệ. Bản chất của chất chống oxy hóa được tìm thấy là một protein ổn định với nhiệt. Hoạt tính chống oxy hóa này bị bất hoạt bởi trypsin. Chất chống oxy hóa đạt hấp phụ cực đại tại bước sóng 280nm. Sau khi qua sắc ký lọc gel, các protein này tăng lên 2 lần trên hoạt tính chống oxy hóa và có 2 vân giao thoa trong SDS-PAGE với phân tử lượng là 24 000 Da. Hoạt tính chống oxy hóa của các protein TAP phụ thuộc vào nồng độ trên chất hoạt hóa gây ra sự peroxy hóa lipid. Một ức chế 50% hoạt dộng của quá trình peroxy hóa lipid tại mức nồng độ protein 50µg/ml. Bơm Ca2+-ATP của mô não chuột được bảo vệ đến gần 50% so với hoạt tính ban đầu từ việc ức chế quá trình peroxy hóa lipid bởi protein này. Quá trình bảo vệ hoạt động của Ca2+-ATPase được tìm ra là có liên quan đến việc ngăn chặn sự mất đi của các nhóm –SH.

Đỗ Thị Thùy Linh

XÁC ĐỊNH HÀM LƯỢNG 8 THÀNH PHẦN TRONG THÂN RỄ (JIANGHUANG) VÀ RỄ CỦ (YUJIN) CỦA LOÀI CURCUMA LONGA SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP CHIẾT XUẤT CHẤT LỎNG SỬ DỤNG ÁP SUẤT (PLE) VÀ SẮC KÝ KHÍ - KHỐI PHỔ GC-MS

N.Y. Qin và cs.

J Pharm Biomed Anal. 2007 Jan 17;43(2):486-92
Curcuma longa (Zingiberaceae) là một loài cây bản địa thuộc vùng Nam Á và được phân bố rộng khắp các vùng khí hậu nhiệt đới trên thế giới. Jianghuang và Yujin là thân rễ và rễ củ của loài C. longa, chúng thường được sử dụng làm hai loại thuốc của Trung Quốc. Trong bài báo này, phương pháp tách chiết chất lỏng có áp suất cao (PLE) và sắc ký khí - khối phổ (GC-MS) được xây dựng để xác định hàm lượng/ ước lượng 8 chất đặc trưng bao gồm: caryophyllen, ar-curcumen, zingiberen, -bisabolen, -sesquiphellandrenendren, ar- turmerone, -turmeron và -ururon trong Jianghuang và Yujin. Sử dụng cột mao quản HP-5MS (30 m × 0,25 mm) phủ lớp màng 0,25 µm 5% phenyl methyl siloxan để phân tách và phương pháp lựa chọn những ion đặc trưng (SIM) để định lượng. Phân tích phân cấp dựa trên đặc điểm của 8 đỉnh được xác định trong GC-MS cho thấy có 10 mẫu được chia thành hai nhóm chính là Jianghuang và Yujin. Bốn thành phần như ar-curcumen, ar-turmeron, -ururoneon và -ururoneon được coi là những chất đánh dấu để kiểm soát chất lượng thân rễ (Jianghuang) và rễ củ (Yujin), là hai loại thuốc cổ truyền Trung Quốc, từ Curcuma longa.
Đỗ Thị Thùy Linh

NGHIÊN CỨU SO SÁNH THÀNH PHẦN HOÁ HỌC VÀ HOẠT TÍNH CHỐNG OXY HOÁ CỦA THÂN RỄ TƯƠI VÀ KHÔ CỦA CỦ NGHỆ (CURCUMA LONGA LINN.)

G. Singh và cs.

Food Chem Toxicol. 2010 Apr;48(4):1026-31

Các phytoconstituents (hoạt chất sinh học) của tinh dầu và ethanol oleoresin (oleoresin là dạng hỗn hợp gồm dầu và nhựa thu được sau khi làm bay hơi dung môi chiết) của thân rễ tươi và khô của nghệ (Curcuma longa Linn.) được phân tích bởi phương pháp GC-MS. Các thành phần chính trong dầu gồm aromatic-turmeron (24,4%), alphaturmeron (20,5%) và beta-turmeron (11,1%) trong thân rễ tươi và aromatic-turmeron (21,4%), alfa-santalen (7,2%) và aromatic curcumen (6,6 %) trong thân rễ nghệ khô. Trong đó, ở oleoresins, các thành phần chủ yếu là alpha-turmeron (53,4%), beta-turmeron (18,1%) và aromatic-turmeron (6,2%) trong thân rễ tươi và aromatic-turmeron (9,6%), alpha-santalen (7,8%) và alpha-turmeron (6.5%) trong thân rễ khô. Kết quả cho thấy rằng alpha-turmeron, là một thành phần chính trong thân rễ tươi nhưng chỉ là một phần nhỏ trong thân rễ nghệ khô. Ngoài ra, hàm lượng của beta-turmeron trong thân rễ khô ít hơn một nửa lượng được tìm thấy trong thân rễ tươi. Hoạt tính chống oxy hóa được đánh giá bằng việc phân tích các peoxy hóa lipid khác nhau cũng như phương pháp bắt giữ gốc DPPH và chelating kim loại (loại bỏ độc tố kim loại). Kết quả cho thấy tinh dầu và ethanol oleoresin của thân rễ tươi có tính chất chống oxy hóa cao hơn so với nghệ khô.

Đỗ Thị Thùy Linh

ĐÁNH GIÁ DI TRUYỀN VÀ HÓA HỌC PHÂN TỬ CỦA CURIZOMAE RHIZOMA Ở TRUNG QUỐC

QUAN Xia và cs.

J Agric Food Chem. 2005 Jul 27;53(15):6019-26

Rhizoma Curcumae (Ezhu) là một loại thuốc cổ truyền ở Trung Quốc đã được sử dụng để loại bỏ huyết khối và giảm đau trong hơn một nghìn năm. Có ba loại thân rễ Curcuma đang được sử dụng, bao gồm Curcuma wenyujin, Curcuma phaeocaulis, và Curcuma kwangsiensis. Ở Trung Quốc, việc sản xuất Curcumae phần lớn phụ thuộc vào nông nghiệp. Tinh dầu được xem là thành phần hoạt tính trong thân rễ Curcuma, bao gồm curdione, curcumol, và germacrone. Dựa trên cơ sở hiệu suất chiết của curdion, curcumol, và germacrone trong một orthogonal array design (thiết kế mảng trực giao), điều kiện chiết tối ưu hóa nhất được thiết lập. Hàm lượng các hợp chất này trong tinh dầu ở thân rễ Curcuma thay đổi theo các loài khác nhau và theo vùng trồng trọt. Các dấu vân tay hóa học được tạo ra từ các loài Curcuma khác nhau, do đó có thể dùng nó làm chất đánh dấu của các loài. Trong nhận dạng di truyền phân tử của thân rễ Curcuma, 5S-rRNA của 5 loài Curcuma, bao gồm các chất ngoại lai phổ biến của thảo mộc, đã được khuếch đại và các trình tự nucleotide của chúng được xác định. Sự đa dạng của trình tự ADN giữa các loài khác nhau được tìm thấy trong các vùng đệm 5S-rRNA của chúng. Vì vậy, đặc trưng hóa học cùng với sự khác biệt di truyền cung cấp các dấu hiệu cho việc kiểm soát chất lượng các loài Curcuma.

Đỗ Thị Thùy Linh

THÀNH PHẦN HÓA HỌC VÀ KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM CỦA NGHỆ (CURCUMA LONGA L.)

Shiyou Li và cs.

Pharmaceutical Crops, 2011, 2, 28-54

Thành phần hóa học trên các mô khác nhau của nghệ (Curcuma longa L.) được nghiên cứu rộng rãi. Đến nay, có ít nhất 235 hợp chất, chủ yếu là các hợp chất phenolic và terpenoid đã được xác định từ nhiều loài, bao gồm 22 diarylheptanoid và diarylpentanoid, 8 phenylpropen và các hợp chất phenolic khác, 68 monoterpen, 109 sesquiterpen, 5 diterpen, 3 triterpenoid, 4 sterol, 2 alcaloid và 14 hợp chất khác. Curcuminoid (diarylheptanoid) và các loại tinh dầu là thành phần chính có hoạt tính sinh học khác nhau bằng phương pháp in vitro và in vivo. Curcuminoid trong nghệ chủ yếu ở trong thân rễ. Tinh dầu từ lá và hoa thường là các monoterpen, trong khi rễ và thân rễ chủ yếu chứa sesquiterpen. Hàm lượng của curcuminoid trong thân rễ thường khác nhau do nhiều nguyên nhân, vị trí, nguồn và điều kiện canh tác, trong khi có sự khác biệt đáng kể về thành phần của tinh dầu trong thân rễ nghệ lại do các loài và vị trí địa lý. Hơn nữa, cả curcuminoid và tinh dầu khác nhau về hàm lượng với các phương pháp chiết xuất khác nhau và không ổn định với quá trình chiết xuất và bảo quản. Kết quả, chất lượng của các sản phẩm nghệ thương mại có thể bị thay đổi đáng kể. Trong khi curcumin (1), demethoxycurcumin (2), và bisdemethoxycurcumin (5) đã được sử dụng như là chất đánh dấu để kiểm tra chất lượng thân rễ, bột, và các sản phẩm chiết xuất (“Curcumin”), Arturmeron (99), α-turmeron (100), và β-turmeron (101) có thể được sử dụng để kiểm soát chất lượng sản phẩm dầu nghệ và các sản phẩm oleoresin. Việc xác định các sản phẩm của nghệ có thể được phân tích bằng các kỹ thuật sắc ký và NMR, DNA, với dữ liệu về hình thái học và giải phẫu như GAP và các thông tin khác có sẵn.

Mai Văn Kiên

SỰ KẾT HỢP CỦA GC-MS VỚI CÁC KỸ THUẬT ĐO LƯỜNG ĐỂ KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG VÀ PHÂN BIỆT NGUỒN GỐC CỦA CURCUMAE LONGAE RHIZOME: PHÂN TÍCH CÁC LOẠI TINH DẦU

Hu Y. và cs.

J Sep Sci. 2014 Feb;37(4):404-11

Curcumae longae rhizome là loại thảo mộc truyền thống được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước. Nguồn gốc địa lý khác nhau của loài thảo mộc này dẫn đến sự đa dạng hoặc sự không ổn định về chất lượng thảo dược. Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định chất đánh dấu để kiểm soát chất lượng và tìm ra các chất chính để phân biệt các loại thảo mộc này từ các nguồn gốc khác nhau. Thứ nhất, xác định thành phần hóa học chính của tinh dầu trong 24 mẫu có trong thân rễ C. longae tại bốn vùng khác nhau ở Trung Quốc bằng GC-MS. Sau đó, các kỹ thuật nhận dạng mẫu được đưa ra để phân tích những dữ liệu hoá học thu được; phân tích phân cấp được sử dụng để phân loại các mẫu thành các nhóm bằng cách đánh giá sự tương đồng của chúng và phân tích thành phần chính và phân tích lượng vết được áp dụng để tìm các dấu vân tay hóa học nhằm phân biệt các mẫu. Thân rễ loài Curcumae longae ở tỉnh Quảng Tây cho hiệu suất tinh dầu cao nhất (4,32 ± 1,45%). Tổng cộng có 46 hợp chất dễ bay hơi đã được xác định. Kết quả thu được cho thấy rằng các mẫu thân củ của C. longae có thể được phân nhóm theo nguồn gốc của chúng, trong đó turmeron, arturmeron và zingiberen là những thành phần đặc trưng để phân biệt các mẫu có nguồn gốc địa lý khác nhau và để kiểm soát chất lượng. Phát hiện này cho thấy việc phân tích các đặc trưng dựa trên GC-MS cùng với các kỹ thuật đo lường có thể cung cấp cơ sở đáng tin cậy để phân biệt các loại thảo mộc từ các nguồn gốc khác nhau, đó là một lợi ích cho việc kiểm soát chất lượng.

Mai Văn Kiên

CẢI TIẾN PHƯƠNG PHÁP HPLC ĐỂ XÁC ĐỊNH CURCUMIN, DEMETHOXYCURCUMIN VÀ BISDEMETHOXYCURCUMIN

Jayaprakasha GK và cs.

J Agric Food Chem. 2002 Jun 19;50(13):3668-72

Loại curcumin có sẵn trên thị trường có chứa chất màu cam-vàng tươi của nghệ, curcuminoid bao gồm hỗn hợp ba chất curcumin, demethoxycurcumin và bisdemethoxycurcumin. Chúng được phân lập bằng sắc ký cột và được xác định bằng các nghiên cứu quang phổ. Độ tinh khiết của curcuminoid được phân tích bằng phương pháp HPLC. Sự tách trên HPLC được thực hiện trên cột C18 sử dụng ba dung môi methanol, 2% acid acetic, và acetonitrile, với sự phát hiện ở 425 nm. Bốn giống nghệ khác nhau có trên thị trường cụ thể là Salem, Erode, Balasore và các mẫu ở địa phương đã được phân tích để xác định tỷ lệ phần trăm của ba chất curcuminoid này. Tỷ lệ phần trăm curcumin, demethoxycurcumin và bisdemethoxycurcumin theo ước tính suy ra từ đường chuẩn của chúng được tìm thấy là 1,06 ± 0,061 đến 5,65 ± 0,040, 0,83 ±0,047 đến 3,36 ± 0,040 và 0,42 ± 0,036 đến 2,16 ± 0,06 theo bốn mẫu khác nhau. Tổng lượng curcuminoid là 2,34 ± 0,177 đến 9,18 ± 0,232%.

Mai Văn Kiên

XÁC ĐỊNH ĐỒNG THỜI BA CHẤT CURCUMINOID TRONG LOÀI CURCUMA LONGA L. BẰNG PHƯƠNG PHÁP SẮC KÝ LỎNG HIỆU NĂNG CAO KẾT HỢP VỚI ĐẦU DÒ ĐIỆN HÓA

Yuling Long và cs.

J Pharm Anal. 2014 Oct;4(5):325-330

Một phương pháp mới để phân tích ba thành phần hoạt tính là curcumin, demethoxycurcumin và bisdemethoxycurcumin trong củ nghê được phát triển bằng phương pháp HPLC kết hợp với đầu dò điện hóa. Ba chất curcuminoid được tách riêng trên cột C18 và đầu dò phát hiện có độ nhạy cao. Sử dụng pha động chứa acetonitrile và 10 mM Na2HPO4 -H3PO4 (pH 5,0) (50:50, v / v), Độ tuyến tính cao nằm trong khoảng 0,208 - 41,6, 0,197 - 39,4 và 0,277 - 114 μM lần lượt với curcumin, demethoxycurcumin và bisdemethoxycurcumin. Giới hạn phát hiện đã đạt tới 10-8 M, thấp hơn so với phát hiện bởi UV. Độ lệch tương đối (RSD) dao động từ từ 1,06% đến 1,88% đối với độ chính xác trong ngày và từ 4,30% đến 5,79% đối với độ chính xác khác ngày. Phương pháp đưa ra đã được áp dụng trong mẫu thực vật và thu hồi từ 86,3% đến 111%.

Mai Văn Kiên

SỰ TĂNG TRƯỞNG, NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG CỦA CỦ NGHỆ (CURCUMA LONGA L.) TRỒNG TRÊN ĐẤT ĐỎ THẨM, ĐẤT XÁM VÀ ĐẤT ĐỎ Ở OKANAWA, NHẬT BẢN

Md Amzad Hossain và Yukio Ishimine

Subtropical Field Science Center, Faculty of Agriculture, University of the Ryukyus, Senbaru 1, Nishihara Cho, Okinawa 903-0213, Japan

Chúng tôi đánh giá sự tăng trưởng, năng suất và chất lượng của nghệ (Curcuma longa L.) trồng trong chậu với đất đỏ sẫm (Ph 5,2), đất xám (Ph 7,4) và đất đỏ (Ph 4,4) ở Okinawa, Nhật Bản. Đất được thu gom từ lớp đất sâu 50 cm của các vùng. Chúng tôi không sử dụng bất kỳ hóa chất hoặc phân bón hữu cơ nào. Củ nghệ trồng trên đất màu sẫm có chiều cao cây trồng, sinh khối rễ và sinh khối chồi cao nhất so với những loại trồng trên các loại đất khác. Củ nghệ trên đất màu đỏ sẫm có năng suất cao nhất với màu vàng đậm đầy hứa hẹn và hàm lượng curcumin cao (0.20%). Hàm lượng protein của cây nghệ trong đất màu sẫm là 5,2%, cao hơn khoảng 40% so với các loại đất khác. Củ nghệ trồng trên đất màu đỏ sẫm và xám có hàm lượng chất béo cao hơn 71% so với những loại trồng trên đất đỏ. Hàm lượng Ca, K và Mg cao nhất khi củ nghệ được trồng trên đất màu xám, và hàm lượng Fe là cao nhất khi trồng trên đất đỏ sẫm. Để đạt được năng suất và hàm lượng curcumin, chất béo, protein và Fe cao chất, chúng ta nên trồng củ nghệ trong đất đỏ sẫm ở Okinawa. Chúng ta không thể nhận ra các yếu tố đặc trưng của đất cần thiết cho sản lượng cao và chất lượng cao của nghệ; tuy nhiên, dường như sự kết hợp riêng biệt giữa các yếu tố của đất, chất dinh dưỡng và mức độ pH có thể là cần thiết để đạt được năng suất cao và chất lượng cao.

P.T. Lý

HOẠT TÍNH SINH HỌC CỦA CURCUMA LONGA L.

Mem Inst Oswaldo Cruz

Mem Inst Oswaldo Cruz. 2001 Jul;96(5):723-8

Có nhiều dữ liệu trong các tài liệu cho thấy rất nhiều hoạt động dược học của Curcuma longa L. (Zingiberaceae), có khả năng chống viêm, chống suy giảm miễn dịch ở người, chống vi khuẩn, chống oxy hóa và có khả năng diệt nấm. Curcumin là thành phần chính trong Curcuma longa L., chịu trách nhiệm về các hành động sinh học của nó. Các chiết xuất khác của cây này cũng đã cho thấy tiềm năng này. Trong ống nghiệm, curcumin có tác dụng chống ký sinh, chống co thắt, chống viêm và có tác dụng để hệ tiêu hóa và cũng ức chế sự phát triển ung thư và ung thư. Trong cơ thể, các thí nghiệm cho thấy khả năng chống ký sinh, chống viêm của chất curcumin và chiết xuất từ C. longa L. bằng cách tiêm và qua đường uống trong mô hình động vật. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tổng hợp về các hoạt động dược học của C. longa L., cho thấy tầm quan trọng của nó.

P.T.Lý

THÀNH PHẦN HÓA HỌC VÀ KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG CỦA CỦ NGHỆ (CURCUMA LONGA L.)

Shiyou Li và cs.

Pharmaceutical Crops, 2011, 2, 28-54

Các thành phần hoá học của các loại mô khác nhau của nghệ (Curcuma longa L.) đã được nghiên cứu rộng rãi. Cho đến nay, có ít nhất 235 hợp chất, chủ yếu là hợp chất phenolic và terpenoid đã được xác định từ các loài, bao gồm 22 diarylheptanoid và diarylpentanoid, 8 phenylpropen và các hợp chất phenolic khác, 68 monoterpen, 109 sesquiterpen, 5 diterpen, 3 triterpenoid, 4 sterol, 2 alcaloids và 14 hợp chất khác. Curcuminoid (diarylheptanoid) và các loại tinh dầu là các thành phần hoạt tính sinh học chính cho thấy hoạt tính sinh học khác nhau trong nghiên cứu trong ống nghiệm và trong cơ thể sinh học. Curcuminoid trong củ nghệ chủ yếu được tích lũy trong thân rễ. Tinh dầu từ lá và hoa thường được chi phối bởi các monoterpen, trong khi những cái từ rễ và thân rễ chủ yếu chứa các sesquiterpen. Thành phần của curcuminoid trong thân rễ cây nghệ thường khác với các giống, vị trí, nguồn gốc và điều kiện canh tác khác nhau, trong khi lại có sự khác biệt đáng kể về thành phần của tinh dầu thân rễ cây nghệ với các giống và địa điểm địa lý. Hơn nữa, cả curcuminoid và tinh dầu đều khác nhau với các phương pháp chiết xuất khác nhau và đều không ổn định trong quá trình khai thác và lưu trữ. Kết quả là, chất lượng của các sản phẩm nghệ thương mại có thể đa dạng một cách rõ ràng. Trong khi curcumin (1), demethoxycurcumin (2), và bisdemethoxycurcumin (5) đã được sử dụng như là những hợp chất để kiểm tra chất lượng thân rễ, bột, và các sản phẩm chiết xuất từ tinh nghệ (Curcumin), Ar-turmeron (99), -turmeron (100), và -turmeron (101)  có thể được sử dụng để kiểm soát chất lượng sản phẩm dầu nghệ và dầu-nhựa. Việc xác định các sản phẩm của nghệ có thể đạt được bằng các kỹ thuật sắc ký và NMR, ghi chép DNA, với dữ liệu về hình thái học và giải phẫu cũng như GAP và các thông tin có sẵn khác.

P.T.Lý

CURCUMIN VÀ CURCUMA LONGA L. CHIẾT XUẤT SỰ TÍCH TỤ LIPID TỐT HƠN THÔNG QUA VIỆC ĐIỀU CHỈNH LƯỢNG PROTEIN VÀ ER

Hwa- Young Lee và cs.

Scientific Reports 7, Article number: 6513(2017) Doi: 10.1038/s41598-017-06872-y

Đối với nghiên cứu này, chúng tôi đã kiểm tra tác động của curcumin đối với stress cấp tính và mãn tính, đặc biệt chú ý tới ROS. Chúng tôi cũng nhằm làm rõ những khác biệt giữa các điều kiện căng thẳng cấp tính và mãn tính. Chúng tôi đã điều tra tác động của curcumin đối với stress cấp tính ( điều trị CCl 4 lần / ngày) và stress mãn tính (mỗi ngày khác /4 tuần CCl điều trị). So với tình trạng căng thẳng cấp tính, trong đó hệ thống chống oxy hoá hoạt động hiệu quả và aspartat transaminase (AST) và tăng sản xuất ROS, stress mạn tính làm tăng AST, ALAN, ALT, ROS và ROS, và hệ thống chống oxy hoá trở nên kém đi. Chúng tôi cũng nhận thấy ROS có nguồn gốc từ ER tích lũy được trong mô hình mãn tính, một sự khác biệt giữa hai điều kiện. ER căng thẳng đã được gây ra liên tục, và trạng thái oxy hóa nội bào tử ER, PDI đại diện, đã bị suy giảm, đặc biệt là trong căng thẳng mãn tính. Protein gan hepatic apoB kết hợp với PDI tích tụ với tình trạng gắn PDI trong stress mạn tính, và chất curcumin phục hồi tình trạng gập lại ER, điều chỉnh căng thẳng ER và rối loạn lipid máu trong gan. Trong suốt nghiên cứu này, curcumin và Curcuma longa L. chiết xuất thúc đẩy quá trình hồi phục CClngộ độc gan gây ra trong cả hai điều kiện căng thẳng. Đối với cả rối loạn lipid máu trong gan, các chất curcumin và Curcuma longa L. có thể được khuyến cáo để phục hồi hoạt động của gan.

P.T.Lý

HẠT NANO HÌNH THOI CHỈNH SỬA HOẠT TÍNH CURCUMIN: CÁC NGHIÊN CỨU VỀ KHUYNH HƯỚNG UNG THƯ VÀ TẾ BÀO BÌNH THƯỜNG VÀ TRONG NGHIÊN CỨU OVO VỀ MÔ PHÔI GÀ

Barbara Strojny và cs

Published: October 13, 2016;

https://doi.org/10.1371/journal.pone.0164637

Curcumin đã được nghiên cứu rộng rãi cho các hoạt động sinh học đa dạng, bao gồm các đặc tính chống ung thư. Vấn đề chính với curcumin là khả dụng sinh học kém của nó, có thể được cải thiện bằng cách bổ sung các chất chống, như các hạt nano hình thoi (DN). Chúng là các hợp chất cacbon, là tương thích sinh học và dễ dàng thực hiện bởi các tế bào. DN không độc và có tính chống tạo mạch với các ứng dụng tiềm năng trong điều trị ung thư. Bề mặt lớn của chúng khiến cho các hợp chất hứa hẹn trong hệ thống phân phối thuốc cho các chất hoạt tính sinh học, như DN tạo ra các phức hợp sinh học trong một quá trình tự tổ chức đơn giản và nhanh chóng. Chúng tôi đã điều tra sự độc tính của các phức hợp sinh học đối với tế bào ung thư gan và các nguyên bào sợi thông thường, cho thấy sự liên hợp curcumin với DN cải thiện đáng kể hoạt tính của nó. Thí nghiệm được thực hiện trong mô phôi gà đã chứng minh rằng: Curcumin, DN hay các phức hợp sinh học đều không ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi, mặc dù DN có thể hình thành các lớp trầm tích trong các mô. Kết quả sơ bộ đã khẳng định khả năng ứng dụng của DN như là chất mang curcumin hiệu quả, giúp cải thiện khả năng hoạt động của nó đối với tế bào ung thư trong ống nghiệm, nhưng không độc đối với cơ thể, làm cho phức hợp sinh học trở thành một chất chống ung thư hứa hẹn
T.T. Nghĩa
CURCUMIN NGĂN CHẶN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA UNG THƯ RUỘT KẾT BẰNG CÁCH ỨC CHẾ ĐƯỜNG WNT/β – CATENIN QUA MIR-130A

Dou H. và cs.

Front Pharmacol. 2017 Nov 24;8:877. doi: 10.3389/fphar.2017.00877. Collection 2017.

Curcumin có tác dụng chống khối u trong một số bệnh ung thư, bao gồm ung thư đại trực tràng (CRC), nhưng các cơ chế chi tiết vẫn còn chưa rõ ràng. Ở đây chúng tôi đã nghiên cứu cơ chế tác động chống lại khối u của curcumin trong tế bào ung thư ruột kết. Các tế bào SW480 đã được tiêm vào chuột để tạo ra mô hình khối u phế nang, sau đó đánh giá tỷ lệ sống sót với việc điều trị curcumin. Các mức biểu hiện của β-catenin, Axin và TCF4 được đo trong tế bào SW480 khi không  hoặc có curcumin. Hơn nữa, miRNAs liên quan đến việc xử lý curcumin cũng được phát hiện trong ống nghiệm. Curcumin có thể ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư đại tràng trong mô hình chuột. Hoạt tính chống u bướu của curcumin đã được thực hiện bằng cách ức chế tăng sinh tế bào hơn là thúc đẩy apoptosis tế bào. Nghiên cứu sâu hơn cho rằng curcumin ức chế sự tăng sinh tế bào bằng cách ức chế con đường Wnt / β-catenin. MiR-130a được điều trị xuống thấp bởi điều trị curcumin, và biểu hiện quá mức miR-130a có thể hủy bỏ hoạt động chống khối u của curcumin. Nghiên cứu của chúng tôi khẳng định curcumin có thể ức chế ung thư đại tràng bằng cách ức chế con đường Wnt / β-catenin qua miR-130a. MiR-130a có thể phục vụ như là một mục tiêu mới của curcumin để điều trị CRC.

T.T. Nghĩa

CURCUMIN GÂY RA SỰ KHÁC BIỆT VỀ OSTEOBLAST THÔNG QUA CÁC TẾ BÀO LƯỚI, TẾ BÀO OSTEOBLAST QUA TRUNG GIAN TẾ BÀO VÕNG MẠC NHẸ NHƯ BMP2

Son HE1, Kim EJ2, Jang WG3

Life Sci. 2018 Jan 15;193:34-39. doi: 10.1016/j.lfs.2017.12.008. Epub 2017 Dec 6

Mục đích:

Curcumin (diferuloylmetan hoặc [1E, 6E] -1,7-bis [4-hydroxy-3-methoxyphenyl] -1,6heptadien-3,5-dion) là một sản phẩm tự nhiên phenolic thu được từ thân rễ của cây củ nghệ, Curcuma longa. Nó được báo cáo là có các hành động sinh học khác nhau như chống oxy hóa, chống viêm, và chống ung thư hiệu quả. Tuy nhiên, cơ chế phân tử của sự khác biệt osteoblast bằng curcumin vẫn chưa được báo cáo.
Phương pháp chính:
Các cytotoxicity của curcumin đã được xác định bằng cách sử dụng 3- (4,5-dimethylthiazol-2yl) -2,5-diphenyltetrazolium bromide (MTT) khảo nghiệm. Biểu hiện của các marker tạo xương và các markers stress nội bào (ER) trong tế bào C3H1-T1 / 2 được đo bằng phản ứng chuỗi chuỗi polymerase (RT-PCR) và sự thâm tím Western blotting. Việc nhuộm alkalin phosphatase (ALP) được thực hiện để đánh giá hoạt động ALP trong tế bào C3H10T1 / 2. Hoạt động phiên mã được phát hiện bằng cách sử dụng một bài báo phóng luciferase.
Những phát hiện quan trọng:
Curcumin đã làm tăng sự biểu hiện của các gen chẳng hạn như các dị ứng homeobox 5 (Dlx5), yếu tố sao chép liên quan đến runt 2 (Runx2), ALP và osteocalcin (OC), sau đó gây ra sự phân biệt osteoblast trong tế bào C3H10T1 / 2. Ngoài ra, hoạt tính ALP và khoáng hóa cũng tăng lên nhờ xử lý curcumin. Curcumin cũng gây ra sự căng thẳng ER nhẹ tương tự như hàm lượng protein hình thái xương 2 (BMP2) trong tế bào osteoblast. Tiếp theo, chúng tôi khẳng định curcumin làm tăng sự căng thẳng của ER nhẹ và sự khác biệt về osteoblast tương tự như BMP2 trong tế bào gốc trung mô C3H10T1 / 2. Các nghiên cứu truyền máu thoáng qua cũng chỉ ra rằng curcumin làm tăng hoạt tính của ATF6-Luc, đồng thời làm giảm các hoạt tính của CREBH-Luc và SMILE-Luc. Ngoài ra, tương tự như BMP2, curcumin gây ra sự phosphoryl hóa của Smad 1/5/9.

Kết luận:

Nhìn chung, những kết quả này chứng minh rằng ER gây stress curcumin gây ra sự khác biệt về osteoblast qua biểu hiện ATF6 trong tế bào C3H10T1 / 2.
T.T. Nghĩa
CHIẾT XUẤT CURCUMIN TỪ NGHỆ VÀNG SỬ DỤNG SIÊU ÂM HỖ TRỢ KHAI THÁC CARBON DIOXIDE SIÊU TỚI HẠN

Chhouk Kimthet và cs

AIP Conference Proceedings 1840, 100001 2017);  https://doi.org/10.1063/1.4982318

Curcumin là một trong những hợp chất phenolic, gần đây đã cho thấy có các đặc tính dược lý hữu ích như các hoạt động chống viêm, chống vi khuẩn, chống ung thư, kháng nấm và kháng khuẩn. Mục tiêu của nghiên cứu này là chiết xuất curcumin từ nghệ vàng. Sử dụng siêu âm hỗ trợ khai thác carbon dioxide siêu tới hạn (USC-CO2). Sự chiết xuất được thực hiện ở 50°C, 25 MPa, tốc độ dòng chảy CO2 3 mL/phút với 10% dung môi. Kết quả của chiết xuất, nhiệt xạ (TG), quang phổ hồng ngoại biến đổi Fourier (FTIR) và kính hiển vi điện tử quét (SEM) cho thấy rằng siêu âm có thể phá vỡ thành tế bào và giải phóng các hợp chất đích từ Curcuma longa L. USC-CO2 có thể cung cấp hàm lượng curcumin cao hơn trong chiết xuất và chiết xuất nhanh hơn so với chiết xuất SC-CO2 mà không cần siêu âm.
T.T. Nghĩa

 

CHIẾT XUẤT CURCUMIN ĐỂ DỰ PHÒNG BỆNH TIỂU ĐƯỜNG TÝP 2

Somlak Chuengsamarn và cs.

Diabetes Care 2012 Nov; 35(11): 2121- 2127.  https://doi.org/10.2337/dc12-0116

Mục tiêu: Để đánh giá hiệu quả của curcumin trong việc trì hoãn sự phát triển của đái tháo đường tuýp 2 (T2DM) trong nhóm người tiền sử.
Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi, giả dược này bao gồm các đối tượng (n = 240) với tiêu chí tiền tiểu đường. Tất cả các đối tượng được phân ngẫu nhiên để nhận curcumin hoặc viên nang giả dược trong 9 tháng. Để đánh giá sự tiến triển của T2DM sau khi điều trị curcumin và xác định số lượng các đối tượng tiến triển đến T2DM, sự thay đổi chức năng tế bào β (đánh giá mô hình cân bằng homeostasis [HOMA] -β, C-peptide và proinsulin/insulin), kháng insulin (HOMA- IR), cytokine chống viêm (adiponectin) và các thông số khác được theo dõi tại thời điểm bắt đầu và tại các cuộc thăm khám 3-, 6- và 9 tháng trong quá trình can thiệp.
Kết quả: Sau 9 tháng điều trị, 16,4% bệnh nhân ở nhóm dùng giả dược được chẩn đoán bằng T2DM, trong khi không ai được chẩn đoán T2DM trong nhóm được điều trị bằng curcumin. Ngoài ra, nhóm điều trị curcumin cho thấy chức năng tổng thể tốt hơn của tế bào β, với HOMA-β cao hơn (61,58 so với 48,72, P <0,01) và thấp hơn C-peptide (1,7 so với 2,17, P <0,05). Nhóm điều trị curcumin cho thấy HOMA-IR thấp hơn (3,22 so với 4,04, P <0,001) và adiponectin cao hơn (22,46 so với 18,45, P <0,05) so với nhóm dùng giả dược.
Kết luận: Sự can thiệp curcumin 9 tháng trong một quần thể tiền sử giảm đáng kể số lượng các cá nhân  những người cuối cùng đã phát triển T2DM. Ngoài ra, việc xử lý curcumin dường như cải thiện chức năng tổng thể của tế bào β, với tác dụng phụ rất nhỏ. Vì vậy, nghiên cứu này đã chứng minh rằng sự can thiệp curcumin trong một dân số prediabetic có thể có lợi.
Tác động của đái tháo đường týp 2 (T2DM) đối với chăm sóc sức khoẻ toàn cầu và nền kinh tế là rất lớn (1). Theo Tổ chức Y tế Thế giới, có ~ 311 triệu người trên toàn thế giới sống cùng với T2DM. Con số này tiếp tục tăng, đặc biệt ở các nước mới phát triển và nghèo hơn ở châu Á và các nơi khác. Vì T2DM hiện không thể chữa được, cách tiếp cận điều trị thông thường là cố gắng kiểm soát bệnh bằng cách sử dụng thuốc chống bệnh tiểu đường suốt đời. Hạn chế số ca T2DM mới phát triển nên là một trong những chiến lược then chốt tốt hơn để hạn chế tác động toàn cầu của T2DM (2). Để hạn chế số lượng trường hợp T2DM mới, lối sống của dân số tiền sử cần thay đổi. Tuy nhiên, điều này đã được chứng tỏ là khó khăn (3). Một trong những cách tiếp cận khác để ngăn ngừa sự phát triển của T2DM là can thiệp với dân số tiền sử bệnh trước khi bệnh tiến triển thành phát triển đầy đủ T2DM (3). Cách tiếp cận can thiệp là rất hấp dẫn. Nó dựa vào việc xác định kịp thời các cá nhân tiền sử và điều trị dự phòng trước khi tiến triển đầy đủ. Sự can thiệp này tạo ra cơ hội cho người dân bị tiểu đường ngưng tiến triển bệnh và duy trì cuộc sống bình thường và lành mạnh. Trong những năm gần đây, một số phác đồ can thiệp hiệu quả T2DM đã được phát triển với kết quả đáng khích lệ (3-5). Tuy nhiên, những phác đồ này thường không thể tiếp cận về mặt kinh tế, và chúng không được dung nạp tốt do các độc tính điều trị (4,5). Trọng tâm bây giờ là xác định các tác nhân điều trị hiệu quả mới, với chi phí thấp và tương đối thấp, có thể được sử dụng thường xuyên để kiểm soát sự tiến triển của T2DM trong nhóm tiền sử.
Curcumin là curcuminoid chính được tìm thấy trong nghệ (Curcuma longa Linn.), Một loại gia vị phổ biến trong ẩm thực Châu Á. Nó được tiêu thụ rộng rãi và thường được cho là có lợi cho sức khoẻ con người (6). Curcumin chiết xuất từ ​​rễ của nghệ đã được chứng minh là có khả năng chống viêm và bệnh đái đường (7-13). Ngoài ra, nó có thể trì hoãn sự phát triển của T2DM, cải thiện các chức năng của tế bào β, ngăn ngừa sự chết tế bào β, và giảm sự đề kháng insulin ở động vật (8-16). Nghiên cứu này nhằm xác định hiệu quả của chiết xuất curcumin như là một tác nhân can thiệp để ngăn ngừa sự phát triển T2DM. Chúng tôi đánh giá sự tiến triển của T2DM và một số thông số T2DM chỉ định trong một nghiên cứu đoàn hệ ngẫu nhiên, mù đôi và giả dược lớn. Chúng tôi thấy rằng chất chiết xuất curcumin có hiệu quả làm giảm số lượng các cá nhân tiền sửphát triển hướng tới T2DM cũng như cải thiện chức năng của các tế bào-β.
T.T. Nghĩa

FALLOPIA MULTIFLORA VAR. ANGULATA, MỘT TỔ HỢP MỚI TRONG HỌ POLYGONACEAE

Yan H. và cs.

Novon: A Journal for Botanical Nomenclature, 2011, 21(3):388-391.

Việc đánh giá phân loại Polygonum multiflorum Thunb. var. angulatum S. Y. Liu (Polygonaceae)  để cho thấy một tổ hợp mới trong chi Fallopia Adans. là cần thiết, và tên F. multiflora (Thunb.) Haraldson var. angulata (S. Y. Liu) H. J. Yan, Z. J. Fang & Shi Xiao Yu được đề xuất. Thứ mới khác biệt với thứ điển hình bởi cành vuông với các gân dọc có các mấu lồi nổi rõ và rễ củ có xơ lớn, các bó mạch khác thường rõ ràng  trên mặt cắt ngang.

Phạm Ngọc Khánh

SINH TRƯỞNG, NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƯNG CỦ NGHỆ (CURCUMA LONGA L.) ĐƯỢC TRỒNG TRÊN ĐẤT ĐỎ ĐẬM, ĐẤT XÁM VÀ ĐẤT ĐỎ TẠI OKINAWA, NHẬT BẢN

Md.Amzad Hosain và cs.

Plant Production Science Vol.8, 2005

Chúng tôi đã đánh giá sự sinh trưởng, năng suất và chất lượng của cây Nghệ (Curcuma longa L.) được trồng trong chậu với đất đỏ đậm (pH 5.2), đất xám (pH 7.4) và đất đỏ (pH 4.4) tại Okinawa, Nhật Bản. Đất được thu tại độ sâu 50 cm trên đồng ruộng. Không sử dụng bất cứ chất hóa học hoặc phân bón hữu cơ. Cây nghệ được trồng trong đất đỏ đậm có chiều cao, sinh khối rễ và sinh khối thân cao nhất so với cây được trồng trên các nhóm đất khác. Trên đất đỏ đậm, cây nghệ có năng suất cao nhất với màu vàng đậm và hàm lượng curcumin toàn phần 0,2%, protein toàn phần 5,2%, cao hơn 40% so với nghệ trồng trên các loại đất khác. Nghệ trồng trên đất đỏ đậm và đất xám có hàm lượng chất béo 71% cao hơn trên đất đỏ. Hàm lượng Ca, K và Mg cao nhất khi nghệ được trồng trên đất xám và hàm lượng Fe cao nhất khi nghệ được trồng trên đất đỏ đậm.

Phạm Ngọc Khánh

TRỒNG TRỌT NGHỆ VÀNG: QUÁ TRÌNH SỬ DỤNG VÀ BẢO TỒN

D.K. Patel và cs.

The Pharma Innovation (International Journal), ISSN: 2277- 7695 TPI 2015; 4(1): 99-101

Nghệ vàng được biết đến như một loại cây đa chức năng của người dân bản địa trên toàn Thế giới. Nó được sử dụng như một loại thuốc đơn giản trong chữa các chứng rối loạn của người dân vùng nông thôn. Bởi vì nghệ vàng có giá trị thương mại lớn tại Ấn Độ cũng như trên thế giới. Sự khai thác mạnh mẽ và trồng trọt còn hạn chế sẽ tạo ra vấn đề về sinh thái cho sự tồn tại của loài trong tự nhiên, dẫn đến dự nguy hiểm cho loài. Nhu cầu sử dụng nghệ vàng như một loại dược phẩm ngày càng tăng tại các chợ. Từ khi Nghệ vàng trở nên nguy cấp, việc tiếp tục trồng  trọt tại vùng nông thôn và ven sông tại Bilaspur sẽ là cách tiếp cận tốt trong bảo tồn loài và mang lại những lợi ích cho người dân bản địa. Mục đích của bài báo là đánh giá quá trình trồng trọt và bảo tồn loài nghệ vàng tại một số địa phương nghiên cứu.

Chu Thị Thúy Nga

TỔNG QUAN TÁC DỤNG DƯỢC HỌC VÀ DƯỢC LÝ TỪ CÂY NGHỆ

Louay Labban và cs.

Int J Pharm Biomed Sci. 2014;5(1):17-23

ISSN No: 0976-5263

Củ nghệ hay Curcuma longa, là một loại thảo mộc lâu năm và thuộc họ Zingiberaceae (gừng), và được trồng tất cả ở các nước châu Á. Các thân rễ, phần của cây được sử dụng như một loại bột màu vàng được sử dụngnhư một hương vị trong nhiều món ăn và như một loại thuốc điều trị nhiều bệnh tật đặc biệt như chống viêm và điều trị chứng đầy hơi, vàng da, kinh nguyệt khó khăn, tiểu máu, xuất huyết và đau bụng hoặc có thể được dùng làm thuốc mỡ cho điều trị nhiều bệnh trên da. Các thành phần hoá học của nghệ là flavonoid curcumin (diferuloylmethan) và các loại dầu dễ bay hơi, bao gồm tumerone, atlantone và zingiberon. Chiết xuất chất hòa tan trong nước và chất béo của nghệ và thành phần curcumin có hoạt tính chống oxy hóa mạnh, có thể so sánh với vitamin C và tác dụng bảo vệ gan của E. Turmeric chủ yếu là kết quả của chất chống oxy hoá của nó các tính chất dẫn đến tăng khả năng kháng tế bào đến tổn thương oxy hoá cũng như khả năng làm giảm sự hình thành các cytokin tiền viêm. Curcumin hành chính làm giảm đáng kể tổn thương gan ở động vật thí nghiệm so với kiểm soát và chiết xuất củ cải cũng ức chế sản xuất aflatoxin nấm bằng 90% bổ sung cho vai trò của nghệ và curcumin trong đảo ngược tăng sản mật, mỡ thay đổi và hoại tử. Các nghiên cứu cho thấy uống curcumin trong các trường hợp tiểu đường, ung thư, rối loạn dạ dày ruột và các bệnh thần kinh. Curcumin cũng có thể được áp dụng tại chỗ để chống lại chứng viêm và kích ứng liên quan đến điều kiện da viêm và dị ứng. Khả năng của Curcumin ức chế sự hình thành ung thư ở ba giai đoạn: tăng cường khối u, tạo mạch và khối u tăng trưởng. Tổng quan này tập trung vào các tác dụng dược học và dược lý của nghệ trong phòng bệnh và điều trị bệnh.

                                         Lê Văn Giỏi

ĐẶC TÍNH HÓA HỌC VÀ CÁC TÁC DỤNG GÂY ĐỘC ĐỐI VỚI VI KHUẨN TRONG ỐNG NGHIỆM TỪ TINH DẦU LÁ NGHỆ Ở MIỀN NAM NIGERIA

Emmanuel E. Essien và cs.

Medicines (Basel). 2015 Dec; 2(4): 340–349. Published online 2015 Dec 21. doi:  10.3390/medicines2040340

Curcuma longa (nghệ) đã được sử dụng trong y học cổ truyền Trung Quốc và Y học Ayurveda trong nhiều năm. Phương pháp: Tinh dầu lá C. longafrom miền Nam Nigeria thu được bằng cách thủy phân và phân tích bằng khí sắc ký - quang phổ khối (GC-MS). Tinh dầu được sàng lọc in vitro kháng khuẩn, kháng nấm, và các hoạt động gây độc tế bào. Các thành phần chính trong dầu lá C. longa là ar-turmeron (63,4%), α-turmeron (13,7%) và β-turmeron (12,6%). Một cụm phân tích đã cho thấy đây là một loại tinh dầu thiết yếu mới của C. longa. Dầu lá cho thấy hoạt tính kháng khuẩn đáng chú ý đến Bacillus cereusandStaphylococcus aureus, hoạt tính kháng nấm Aspergillus niger, và hoạt động của cytotoxic đối với Hs 578T (khối u vú) và Tế bào khối u PC-3 (tuyến tiền liệt). Tinh dầu ar-turmeron giàu dầu C. longa ở Nigeria đã cho thấy hoạt động sinh học học mạnh và hứa hẹn điều trị bệnh tốt trong tương lai.

                                 Trần Văn Thắng

ĐẶC TÍNH CHỐNG UNG THƯ CỦA CURCUMIN: CÁC ĐỀ XUẤT CHO SỰ PHÁT TRIỂN LÂM SÀNG CỦA NÓ NHƯ LÀ MỘT CHẤT CHỐNG UNG THƯ VÀ HOÁ TRỊ LIỆU UNG THƯ

Miguel Lospez- Lazaro và cs.

Mol Nutr Food Res. 2008 Jun;52 Suppl 1:S103-27

Một nghiên cứu đang phát triển cho thấy curcumin, thành phần chủ yếu hoạt động của gia vị củ nghệ, có tiềm năng để phòng ngừa và điều trị ung thư. Các dữ liệu tiền sử cho thấy chất curcumin có thể ngăn chặn sự hình thành các khối u ở mô hình sinh vật gây ung thư và tác động lên nhiều mục tiêu phân tử liên quan đến sự phát triển của ung thư. tế bào đã được quan sát thấy. Các thử nghiệm lâm sàng cho thấy curcumin được dung nạp tốt và có thể sản sinh ra kháng thể hiệu quả ở những người bị tổn thương tiền ung thư hoặc những người có nguy cơ cao bị ung thư. Điều này dường như chỉ ra rằng chất curcumin là một tác nhân dược lý an toàn có thể được sử dụng trong điều trị ung thư hóa học và liệu pháp. Tuy nhiên, các nghiên cứu in vitro và in vivo của Bothin cho thấy curcumin có thể gây độc hại và các tác động gây ung thư trong điều kiện cụ thể. Curcumin cũng có thể làm thay đổi hiệu quả của xạ trị và hóa trị. Bài báo tổng quan này phân tích các hoạt động liên quan đến ung thư in vitro và in vivo của curcumin và thảo luận về chúng có liên quan đến tính chất chống oxy hoá và chống oxy hóa được biết đến của nó. Một số cân nhắc có thể giúp phát triển chất curcumin như một chất chống ung thư cũng cần thảo luận.

                               Nguyễn Hải Văn

 

TỔNG QUAN TÁC DỤNG SINH HỌC, ĐIU TRỊ VÀ CHỐNG UNG THƯ CỦA NGHỆ

Donatella P. và cs.

Exp Ther Med. 2015 Nov;10(5):1615-1623. Epub 2015 Sep 17.

Curcumin (diferuloylmethane) isa polyphenol có từ cây nghệ. Nghệ được được sử dụng rộng rãi trong y học Ayurvedic, vì nó không độc và có nhiều tác dụng điều trị, bao gồm chất chống oxy hoá, giảm đau, chống viêm và các hoạt động sát trùng. Gần đây, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng curcumin có thể gây ra hiệu quả chống ung thư trong một loạt các con đường sinh học liên quan đến đột biến, phát triển khối u, quy trình chu trình tế bào và di căn. Các nghiên cứu hiện tại đã xem xét các nghiên cứu trước đây trong văn học, mà hỗ trợ các hoạt động điều trị của curcumin trong ung thư. Ngoài ra, nghiên cứu này đã làm sáng tỏ một số những thách thức liên quan đến việc sử dụng curcumin như một chất bổ trợ chất hóa học trị liệu. Tất cả các nghiên cứu xem xét đề xuất chất curcumin có khả năng chống viêm, chống tiểu cầu, chống oxy hoá, chống viêm gan và các hoạt động chống ung thư, đặc biệt đối với ung thư gan, da, tuyến tụy, tuyến tiền liệt, buồng trứng, phổi và cổ đầu, cũng như có tác động tích cực trong điều trị viêm khớp.

                               Trần Văn Thắng

 

(Nguồn tin: Viện Dược liệu)