Thông tin dược liệu

Bản tin dược liệu số 05/2019

BẢN TIN DƯỢC LIỆU SỐ 5/2019

TT

TIN DỊCH

  1.  

ATRACTYLENOLID III CẢI THIỆN CÁC TỔN THƯƠNG DO THIẾU MÁU NÃO VÀ VIÊM DÂY THẦN KINH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ỨC CHẾ SỰ PHÂN ĐÔI TY THỂ PHỤ THUỘC JAK2 / STAT3 / Drp1 TRONG TẾ BÀO MICROGLIA

 

Zhou K và cs.

Phytomedicine, 2019 Jun; 59:152922

 

Tổng quan: Viêm là một tác nhân chính của bệnh lý đột quỵ, điều này khiến viêm trở thành một chiến lược đầy hứa hẹn để can thiệp trong quá trình điều trị đột quỵ. Microglia – tế bào đại thực bào cư trú trong não, đóng vai trò thiết yếu trong cả việc tạo ra và việc giải quyết tình trạng viêm thần kinh. Đặc biệt, cân bằng nội môi của ty thể rất quan trọng đối với chức năng của microglia và sự rối loạn điều hòa của nó có liên quan đến sinh bệnh học của đột quỵ do thiếu máu não cục bộ. Atractylenolid III (A III), một loại sesquiterpen lacton có trong bạch truật Atractylodes macrocephala Koidz, đã được chứng minh là có tác dụng ức chế viêm. Tuy nhiên, tác dụng của hợp chất này đặc biệt là đối với viêm thần kinh và sự cân bằng nội môi ty thể của microglia sau đột quỵ vẫn còn chưa được hiểu biết cặn kẽ.

 

Giả thuyết: Chúng tôi đã đưa ra giả thuyết rằng A III có tác dụng bảo vệ chống lại sự thiếu máu não, thông qua việc ức chế viêm thần kinh qua trung gian phân hạch ty thể phụ thuộc JAK2/STAT3/Drp1.

 

Phương pháp: Các tác dụng bảo vệ thần kinh và chống viêm thần kinh của A III đã được nghiên cứu in vivo trên chuột nhắt trắng bị gây tắc tạm thời động mạch não giữa (MCAO) và nghiên cứu in vitro trên mô hình kích thích tế bào microglia nguyên phát ly trích từ chuột nhắt bởi sự thiếu hụt glucose và quá trình tái tạo oxy (OGDR).

 

Kết quả: Việc điều trị bằng A III và AG490-chất ức chế JAK2, làm giảm kích thước nhồi máu não, phục hồi lưu lượng máu não (CBF), phù não cải thiện và cải thiện tình trạng suy nhược thần kinh ở chuột MCAO. Hơn nữa, A III và AG490 ức chế mRNA và ức chế biểu hiện của các protein tiền viêm (IL-1β, TNF-α và IL-6) và các cytokin chống viêm ở cả chuột MCAO và trên tế bào microglia nguyên phát trong mô hình OGDR. Con đường JAK2 / STAT3 đã bị ức chế hiệu quả bởi A III, tương tự như hiệu quả của điều trị với AG490. Ngoài ra, việc điều trị bằng A III và AG490 làm giảm đáng kể sự phosphoryl hóa Drp1, sự dịch chuyển và phân đôi ty thể trong microglia nguyên phát được kích thích với OGDR trong 24 giờ.

 

Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi đã chứng minh rằng A III có thể làm giảm các biến chứng liên quan đến thiếu máu cục bộ thông qua ức chế viêm thần kinh, được điều hòa một phần bởi sự phân đôi ty thể phụ thuộc JAK2 / STAT3 trong tế bào microglia.

Phí Thị Xuyến

 

 

  1.  

TỔNG QUAN: CÁC CÁCH SỬ DỤNG TRUYỀN THỐNG, HÓA THỰC VẬT VÀ TÁC DỤNG DƯỢC LÝ CỦA BẠCH TRUẬT (ATRACTYLODES MCROCEPHALA KOIDZ.)

 

Chu B và cs.

J Ethnopharmacol, 2018 Nov 15;226:143-167

 

Liên quan đến dược lý cổ truyền: Atractylodes macrocephala Koidz. (được gọi là bạch truật ở Trung Quốc) là cây thuốc từ lâu đã được sử dụng như một loại thuốc bổ trong các nên y học cổ truyền khác nhau ở Đông Á, đặc biệt là ở Trung Quốc, để điều trị rối loạn chức năng đường tiêu hóa, ung thư, loãng xương, béo phì và an thai.

 

Mục đích của nghiên cứu: Bài tổng quan này nhằm cung cấp một bản tóm tắt có hệ thống về thực vật học, phương thức sử dụng truyền thống, hóa thực vật, dược lý, dược động học và độc tính của bạch truật để khám phá tiềm năng điều trị và tiềm năng khoa học trong tương lai của loại cây này.

 

Phương tiện và phương pháp nghiên cứu: Một hệ thống tìm kiếm tài liệu về A. macrocephala đã được thực hiện trên cơ sở dữ liệu khoa học bao gồm Web of Science, Google Scholar, Baidu Scholar, Springer, PubMed, Sci Downloader và ScienceDirect. Thông tin cũng được thu thập từ các cuốn sách kinh điển của thảo dược Trung Quốc, luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, các tài liệu chưa được công bố và tài liệu hội nghị địa phương về độc tính học. Phân loại thực vật đã được xác nhận vào cơ sở dữ liệu "Danh sách thực vật" (www.theplantlist.org).

Kết quả: Hơn 79 hợp chất hóa học đã được phân lập từ bạch truật, bao gồm các sesquiterpenoid, triterpenoid, polyacetylen, coumarin, phenylpropanoid, flavonoid và flavonoid glycosid, steroid, benzoquinon, và polysaccharid. Cao chiết thô và các hợp chất tinh khiết của bạch truật được sử dụng để điều trị suy giảm chức năng đường tiêu hóa, ung thư, viêm khớp, loãng xương, suy nhược lách, di chuyển bất thường của thai nhi, bệnh Alzheimer và béo phì. Các chất chiết xuất này có tác dụng dược lý khác nhau, bao gồm hoạt tính chống ung thư, chống viêm, chống lão hóa, chống oxy hóa, chống loãng xương, tác dụng bảo vệ thần kinh và điều hòa miễn dịch, cũng như cải thiện chức năng tiêu hóa và điều hòa nội tiết tố hướng sinh dục.

 

Kết luận: Bạch truật là một loại dược liệu cổ truyền với nhiều tác dụng dược lý có giá trị của Trung Quốc. Các nghiên cứu dược lý hỗ trợ việc sử dụng A. macrocephala truyền thống và có thể khẳng định việc sử dụng bạch truật trong y học dân gian để điều trị nhiều bệnh mãn tính. Các tài liệu có sẵn cho thấy rằng phần lớn tác động của bạch truật có thể do các thành phần sesquiterpenoid, polysaccharid và polyacetylen. Tuy nhiên, cần phải hiểu rõ hơn về các cơ chế phân tử và mối quan hệ cấu trúc - chức năng của các thành phần này, cũng như các tác động hiệp đồng và đối kháng tiềm năng của chúng. Việc nghiên cứu sâu hơn để đánh giá toàn diện về chất lượng dược liệu, sự hiểu biết về tác dụng dược lý đa mục tiêu của bạch truật, cũng như độc tính trường diễn in vivo và hiệu quả lâm sàng của bạch truật được đề nghị.

 

Phí Thị Xuyến, Trần Đại Hải

 

  1.  

TÁC DỤNG CỦA VIỆC UỐNG CAO CHIẾT NƯỚC BẠCH TRUẬT (ATRACTYLODES MCROCEPHALA KOIDZ)

VỚI ĐÁP ỨNG VIÊM CỦA ĐẠI THỰC BÀO VÀ TẾ BÀO LYMPHO T TRÊN CHUỘT NHẮT TRẮNG

 

Kwak TK và cs.

Evid Based Complement Alternat Med, 2018 Aug 7;2018:4041873

 

Thân rễ bạch truật (AM) là thành phần trong nhiều đơn thuốc có hợp chất tăng cường Qi. Chúng tôi đã đánh giá các đáp ứng viêm của đại thực bào và tế bào T được phân lập từ chuột nhắt trắng sau khi uống cao chiết nước AM (AME). Phân lập tế bào dịch rỉ màng bụng của chuột nhắt trắng được tiêm thioglycollat và đánh giá sự thay đổi của các thụ thể thu dọn. Đại thực bào màng bụng đã được kích thích bởi lipopolysaccharid (LPS). Đánh giá đáp ứng của cytokin huyết thanh với tiêm LPS phúc mạc. Phân lập tế bào lách để xác định thành phần và các đáp ứng chức năng. Hàm lượng của các hoạt chất chống viêm atractylenolid I và atractylenolid III trong AME lần lượt là 0,0338 mg/g và 0,565 mg/g cao chiết. AME đã làm tăng số lượng tế bào SRA (+) CD11b(+) trong đáp ứng với thioglucollat. Đại thực bào phân lập từ phúc mạc của lô AME cho thấy không có sự thay đổi các chỉ thị viêm như yếu tố hoại tử khối u (TNF) α, interleukin (IL) 6, nitric oxide synthase cảm ứng và cyclooxygenase-2 nhưng làm giảm biểu hiện của CD86.  Điều thú vị là AME đã làm giảm hàm lượng TNF-α và IL-6 trong huyết thanh khi tiêm phúc mạc LPS. Về hệ miễn dịch đáp ứng, AME đã làm tăng mật độ tế bào T CD4(+) và tăng biểu hiện phân tử loại 2 phức hợp tương hợp mô chủ yếu ở lá lách và trong tế bào lách nuôi cấy của lô AME cho thầy có sự tăng sản sinh IL-4 đồng thời với việc giảm sản sinh interferon-γ trong khi hoạt hóa tế bào T. AME đã làm tăng bổ sung đại thực bào phúc mạc trong đáp ứng viêm nhưng hoạt tính chống viêm có vẻ không phải được trung gian bởi sự điều hòa hoạt tính của đại thực bào. AME cũng đã thay đổi trạng thái miễn dịch của tế bào T CD4, thúc đẩy đáp ứng Th2.

Nguyễn Thị Phượng

  1.  

XÁC ĐỊNH CÁC HỢP CHẤT TỰ ĐỘC TỐ TỪ BẠCH TRUẬT (ATRACTYLODES MCROCEPHALA KOIDZ) VÀ BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÚNG TRÊN HỆ MIỄN DỊCH

 

Zheng F và cs.

J Plant Physiol, 2018 Nov;230:33-39

 

Bạch truật (A. macrocephala) là một vị thuốc cổ truyền Trung Quốc có nhiều tác dụng tốt cho sức khỏe nên đã được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tự độc tố là một trong những vấn đề chính cản trở việc trồng bạch truật liên tục, đã được báo cáo là kìm hãm sự tăng trưởng của cây theo nhiều cách khác nhau. Mặc dù vậy, rất ít báo cáo về tác động của tự độc tố lên hệ miễn dịch thực vật. Trong nghiên cứu này, tự độc tố 2,4-Diterbutylphenol (2,3-DP) được phân lập từ chất tiết của rễ và từ đất xung quanh thân rễ bạch truật đã được xác định bằng sắc ký khí khối phổ (GC-MS). Kết quả của thử nghiệm nảy mầm cho thấy 2,4-DP đã có tác dụng ức chế đáng kể sự nảy mầm của hạt. Hơn nữa, ở cây giống không phòng bệnh, có ba nồng độ của 2,4-DP (0,1; 1 và 10 mmol/L) đã ảnh hưởng đến các chỉ thị kháng thuốc hệ thống (SAR, Kháng thuốc mắc phải toàn thân là phản ứng kháng thuốc "toàn cây" xảy ra sau khi phơi nhiễm cục bộ trước đó với mầm bệnh): tích tụ acid salicylic (SA), hoạt tính của các enzym bảo vệ, hàm lượng các atractylenolid và tăng chỉ số bệnh tật (DI). Ở cây giống được phòng bệnh, 2,4-DP đã làm giảm các chỉ thị của SAR và tăng các DI ở nồng độ thấp và nồng độ cao nhưng làm tăng các chỉ thị của SAR và giảm các DI ở nồng độ trung bình. Những kết quả này cho thấy 2,4-DP có tác dụng ức chế hệ miễn dịch thực vật nhưng nó có thể gây ra SAR tại một nồng độ bất kỳ bằng cách kiểm soát nấm gây bệnh.

Nguyễn Thị Phượng

  1.  

VIÊN NANG SHENZHU ĐIỀU HÒA VI KHUẨN ĐƯỜNG RUỘT TRONG ĐIỀU TRỊ TIÊU CHẢY GÂY BỞI HÓA TRỊ

 

Wang J1 và cs.

BMC Complement Altern Med, 2019 Jun 11;19(1):126

 

Tổng quan: Hệ vi khuẩn đường ruột đóng vai trò quan trọng trong điều trị các bệnh lý đường tiêu hoá (GI) như tiêu chảy do hoá trị (CID). Viên nang Shenzhu (SZC) là thuốc thảo dược Trung Quốc chứa Renshen (thân rễ nhân sâm - Panax ginseng C. A. Mey) và Baizhou (thân rễ bạch truật - Atractylodes macrocephala Koidz.). Nhiều bài thuốc cổ truyền Trung Quốc chữa tiêu chảy đều có chứa Renshen và Baizhu có hiệu quả giảm nhẹ bệnh lý CID. Tuy nhiên, hiệu quả in vivo và cơ chế tiềm năng của SZC trong điều trị CID vẫn chưa được sáng tỏ. Do đó, nghiên cứu này được tiến hành để đánh giá xem SZC có tác dụng chống tiêu chảy và hệ vi khuẩn đường ruột có liên quan tới hiệu lực của SZC trong điều trị CID hay không.

Phương pháp: Đã sử dụng phân tích sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC), sắc ký khí – khối phổ (GC-MS) và phổ hồng ngoại (IR) để xác định thành phần được ly trích trong chế phẩm SZC. Ở mô hình dự phòng, chuột nhắt trắng được cho uống SZC 2 ngày trước khi tiến hành thí nghiệm, và sau đó chuột được tiêm phúc mạc 5-FU (40 mg/kg/ngày) trong 6 ngày. Chuột được tiếp tục được uống SZC kéo dài thêm 3 ngày sau khi kết thúc hoá trị liệu bằng 5-FU. Chúng tôi đã đánh giá tác dụng của SZC trên các chỉ số về cân nặng, tiêu chảy, các chỉ số của ức/lách, mô trực tràng và hệ vi khuẩn đường ruột. Đánh giá giải phẫu bệnh mô ruột bằng nhuộm hematoxyly-eosin (HE). Đã phân tích cấu trúc của hệ vi khuẩn ruột trong các mẫu phân bằng trình tự Amplicon 16S rDNA.

Kết quả: SZC làm tăng đáng kể cân nặng chuột và các chỉ số ức/lách, giảm tiêu chảy và đảo ngược những thay đổi mô bệnh học trực tràng. Ngoài ra, phân tích hệ vi khuẩn đường ruột đã cho thấy cấu trúc tổng thể của hệ vi khuẩn đường ruột của chuột bị CID đã bị thay đổi nhưng được phục hồi sau khi điều trị bằng SZC. Ở mức độ chi vi khuẩn, SZC ức chế đáng kể sự phát triển của một số vi khuẩn gây bệnh liên quan nhiều đến tiêu chảy như Clostridiumm, Bacteroid, Parabacteroid, Alloprevotella, Acinetobacter Pseudomonas.

Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy SZC đã ức chế sự phát triển của nhiều vi khuẩn gây bệnh trong quá trình giảm CID. Điều hoà hệ vi khuẩn đường ruột được cho là liên quan tới hoạt tính điều trị tiêu chảy của SZC.

Trần Nguyên Hồng

  1.  

TÁC DỤNG CHỐNG TRẦM CẢM CỦA ATRACTYLENOLID I TRÊN MÔ HÌNH CHUỘT TRẦM CẢM GÂY BỞI STRESS NHẸ TRƯỜNG DIỄN KHÔNG DỰ ĐOÁN

 

Gao H1 và cs.

Exp Ther Med, 2018 Feb;15(2):1574-1579

 

Atractylenolid I (AT-I), là thành phần chính trong thân rễ  bạch truật (Atractylodes macrocephala Koidz.), có nhiều hoạt tính. Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá tác dụng chống trầm cảm của AT-I trong mô hình stress nhẹ trường diễn không dự đoán (CUMS), và tìm cơ chế phân tử liên quan. Kết quả đã cho thấy AT-I cải thiện rõ rệt các hành vi trầm cảm của chuột gây bởi mô hình CUMS, được chứng minh bởi gia tăng sử dụng đường sucrose, giảm thời gian bất động trong mô hình chuột bơi cưỡng bức và mô hình treo đuôi. Ngoài ra, AT-I làm hạn chế sự suy giảm hàm lượng serotonin và norepinephrin ở vùng đồi hải mã gây bởi mô hình CUMS. Hơn nữa, AT-I ức chế hoạt hoá phức hợp viêm NLRP3 cũng như giảm nồng độ cytokin tiền viêm interleukin (IL-1b) trong vùng đồi hải mã của chuột nhắt trắng bị CUMS. Kết quả đã cho thấy AT-I có tác dụng chống trầm cảm ở mô hình trầm cảm gây bởi CUMS trên chuột nhắt trắng với cơ chế phân tử liên quan tới ức chế hoạt hoá phức hợp viêm NLRP3 giúp giảm sản xuất IL-1b.

Trần Nguyên Hồng

  1.  

POLYSACCHARID CHIẾT TỪ BẠCH TRUẬT (ATRACTYLODES MACROCEPHALA KOIDZ (PAMK)) GÂY RA SỰ TỰ CHẾT TẾ BÀO H22 CẤY GHÉP TRÊN CHUỘT NHẮT TRẮNG

 

Feng YY và cs.

Int J Biol Macromo, 2019 Jun 19;137:604-611

 

 

Đặt vấn đề: Polysaccharid của bạch truật (PAMK) được chiết bằng phương pháp tạo tủa với cồn ở nồng độ từ 60% đến 90 % và được tinh chế bằng màng siêu lọc. Qua phân tích trên sắc kí thẩm thấu gel hiệu năng cao (HPGPC), quang phổ hồng ngoại (FT- IR), sắc kí khí (GC) và phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR) cho thấy PAMK là một heteropolysaccharid trung tính có 4.1KDa bao gồm galactose, arabinose và glucose với cấu hình α (tỉ lệ mol 1:1.5:5). Kết quả xác định các thành phần hóa học cho thấy PAMK có chứa 96,47% polysaccharid và tỉ lệ nhỏ protein, acid nucleic và acid uronic. Các nghiên cứu chống khối u in vivo cho thấy PAMK có tác dụng gây độc tế bào và chống khối u bằng cách ức chế các tế bào khối u ở pha S. Không những vậy, PAMK có thể bảo vệ các tổ chức miễn dịch một cách hiệu quả so với cyclophosphamid. Nghiên cứu đã cung cấp một dược chất chống khối u tiềm năng trong điều trị khối u.

Đinh Thị Minh

  1.  

TÁC DỤNG HÓA DỰ PHÒNG CỦA ATRACTYLENOLID II TRONG BỆNH U TUYẾN VÚ THÔNG QUA CON ĐƯỜNG HOẠT HÓA Nrf2-ARE

 

Wang T  và cs.

Oncotarget 2017 Aug 24;8(44):77500-77514

 

    Trong các nghiên cứu về hóa dự phòng ung thư, con đường truyền tín hiệu Nrf2-Are đã nhận được sự chú ý rộng rãi nhờ tác dụng chống viêm và chống oxy hóa. Nghiên cứu trước đây của chúng tôi chỉ ra rắng atractylenolid II, hoạt chất của bạch truật (Atractylodes macrocephala Koidz), là tác nhân hoạt hóa tiềm năng con đường tín hiệu Nrf2-ARE. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã ghi nhận atractylenolid II làm tăng đáng kể biểu hiện Nrf2, chuyển vị hạt nhân và biểu hiện của các enzym giải độc xuôi dòng, do đó làm giảm sự biến đổi ác tính gây bởi 17β-Estradiol trong các tế bào MCF 10A và chúng tôi nhận thấy rằng atractylenolide II đã tác động thông qua con đường JNK/Nrf2-ARE. Hơn nữa, atractylenolid II làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc khối u gây bởi N-Nitroso-N-methylurea, theo cấp số nhân và kích thước, với cơ chế hoạt hóa con đường Nrf2-ARE và giảm viêm và giảm stress oxy hóa trong mô vú của chuột cống trắng. Nhìn chung, các kết quả của chúng tôi gợi ý rằng atractylenolid II có thể là một  tác nhân hóa dự phòng ung thư vú mới do nó có thể bảo vệ chống lại khối u tuyến vú cả in vivoin vitro thông qua sự hoạt hóa con đường tín hiệu Nrf2-ARE.

 Đinh Thị Minh

  1.  

TÁC DỤNG CỦA TINH DẦU BẠCH TRUẬT (ATRACTYLODES MACROCPHALA) KẾT HỢP VỚI SAPONIN TOÀN PHẦN NHÂN SÂM – PANAX GINSENG LÀM GIẢM TIÊU CHẢY GÂY BỞI 5-FLUOROURACIL CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC ĐIỀU HÒA HỆ VI KHUẨN ĐƯỜNG RUỘT

 

Wang J và cs.

J Ethnopharmacol. 2019 Jun 28;238:111887

 

Sự liên quan đến dược lý cổ truyền: Y học cổ truyền Trung Quốc (TCM) cho rằng sự suy giảm Qi-lá lách là nguyên nhân bệnh sinh chính của tiêu chảy trong hóa trị liệu (CID). Cặp thảo dược bạch truật (Atractylodes macrocephala Koidz. - AM) và nhân sâm (Panax ginseng C. A. Mey. - PG) có tác dụng tốt trong việc bổ sung Qi và tang cường chức năng lá lách.

Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu hiệu quả điều trị và cơ chế của tinh dầu bạch truật (AMO) và cao saponins toàn phần nhân sâm (PGS) đơn lẻ và kết hợp (AP) trên chuột bị tiêu chảy gây bởi hóa trị 5-fluorouracil (5-FU).

Vật liệu và phương pháp nghiên cứu: Chuột nhắt trắng được điều trị bằng AMO, PGS và AP, tương ứng, trong 11 ngày và được tiêm phúc mạc 5-FU trong 6 ngày kể từ ngày thứ 3 của thí nghiệm. Trong quá trình thí nghiệm, trọng lượng cơ thể và điểm số tiêu chảy của chuột được ghi nhận hàng ngày. Tính toán chỉ số tuyến ức và lá lách sau khi chuột được hy sinh. Đánh giá thay đổi bệnh lý ở mô hồi tràng và mô đại tràng bằng nhuộm hematoxylin-eosin (HE). Đo hàm lượng của các cytokine gây viêm ruột bằng các xét nghiệm miễn dịch hấp thụ liên kết với enzym (ELISA). Phân tích và liệt kê hệ vi sinh vật đường ruột của các mẫu phân bằng trình tự Amplicon 16S rDNA.

Kết quả: AP đã ức chế đáng kể sự giảm trọng lượng cơ thể, tiêu chảy, giảm chỉ số tuyến ức và lá lách, giảm các thay đổi bệnh lý của hồi tràng và đại tràng gây ra bởi 5-FU. Cả AMO và PGS đơn lẻ đều không cải thiện đáng kể những bất thường nêu trên. Ngoài ra, AP có thể ức chế đáng kể sự gia tăng của các cytokin gây viêm ruột của 5-FU (TNF-α, IFN-γ, IL-6, IL-1β và IL-17), trong khi AMO hoặc PGS chỉ ức chế một số trong số các cytokin sau khi hóa trị 5-FU. Phân tích hệ vi sinh vật đường ruột cho thấy cấu trúc tổng thể bị thay đổi bởi 5-FU đã bị đảo ngược sau khi điều trị AP. Thêm vào đó, AP đã điều chỉnh đáng kể sự phong phú của các phyla khác nhau tương tự như giá trị bình thường và khôi phục tỷ lệ của Firmicutes/Bacteroidetes (F/B). Ở cấp độ chi, điều trị AP làm giảm đáng kể các mầm bệnh tiềm ẩn như Bacteroides, Ruminococcus, Anaerotruncus và Desulfovibrio. AP cũng đối kháng với tác dụng bất thường của AMO và PGS đơn lẻ trên một số chi nhất định như Blautia, Parabacteroide Lactobacillus. Cả AMO và PGS đơn lẻ đều không ức chế sự thay đổi cấu trúc vi khuẩn đường ruột do 5-FU gây ra. Kết luận: AP, dạng kết hợp AMO và PGS, không phải AMO hay PGS đơn lẻ, đã cải thiện đáng kể bệnh tiêu chảy, ức chế bệnh đường ruột, và điều hòa cấu trúc hệ vi khuẩn đường ruột ở chuột nhắt trắng tiêm 5-FU. AP cũng đối kháng tác dụng bất thường của AMO hoặc PGS trên một số chủng vi khuẩn nhất định. Các kết quả đã minh họa rằng hệ vi sinh vật đường ruột có liên quan đến tác dụng kết hợp của AP đối với tiêu chảy do 5-FU gây ra.

Nguyễn  Văn Hiệp

  1.  

POLYSACCHARID BẠCH TRUẬT (ATRACTYLODES MACROCEPHALA KOIDZ -PAMK) LÀM GIẢM ỨC CHẾ MIỄN DỊCH Ở NGỖNG ĐIỀU TRỊ BẰNG CYCLOPHOSPHAMID BẰNG CÁCH DUY TRÌ CẦN BẰNG MIỄN DỊCH TẾ BÀO VÀ DỊCH THỂ

 

Li W và cs.

Molecules 2018; Apr 17;23(4)

 

Polysaccharid bạch truật (PAMK) đã được công nhận là chất kích thích miễn dịch có thể thúc đẩy tăng sinh tế bào lympho và hoạt hóa các tế bào miễn dịch. Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá tác dụng của PAMK đối với chức năng miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào ở ngỗng bị ức chế miễn dịch. Ngỗng của nhóm đối chứng được cho ăn thức ăn bình thường, nhóm PAMK được cho ăn PAMK 400 mg/kg trọng lượng cơ thể, nhóm cyclophosphamid (CTX) được tiêm cyclophosphamid 40 mg/kg trọng lượng cơ thể, nhóm CTX + PAMK được điều trị kết hợp PAMK và CTX. Đánh giá sự phát triển của lá lách và tỷ lệ bạch cầu trong máu ngoại vi. Phân tích mối tương quan giữa các chỉ số miễn dịch tế bào và dịch thể thông qua việc phân tích các thành phần chính. Kết quả cho thấy PAMK làm giảm tổn thương lá lách, giảm sự tăng sinh tế bào T và tế bào B, giảm sự mất cân bằng của bạch cầu và giảm các rối loạn miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào do CTX gây ra. Phân tích thành phần chính cho thấy mức độ phù hợp của các chỉ số liên quan đến miễn dịch dịch thể là lớn hơn và nhóm CTX + PAMK biểu hiện sự khác biệt lớn nhất so với nhóm CTX nhưng lại gần với nhóm chứng sinh lý. Tóm lại, PAMK làm giảm bớt tình trạng ức chế miễn dịch do CTX gây ra ở ngỗng, và tác dụng bảo vệ của PAMK đối với khả năng miễn dịch dịch thể rõ ràng và ổn định hơn.

Nguyễn Văn Hiệp

 

  1.  

CÁC GLYCOPROTEIN PHÂN LẬP TỪ BẠCH TRUẬT (ATRACTYLODES MACROCEPHALA KOIDZ) CẢI THIỆN ĐÁP ỨNG MIỄN DỊCH BẢO VỆ TRÊN CHUỘT NHẮT

 

Kim KA và cs

Food Sci Biotechnol. 2018 Jul 10;27(6):1823-1831

 

Nghiên cứu này được tiến hành nhằm để đánh giá hiệu quả của các protein và polysaccharid chiết xuất từ bạch chuật (AMK) với vai trò là chất bổ trợ hoặc chất tăng cường bổ trợ khi dùng cùng với vắc-xin trị viêm màng phổi heo. Chuột nhắt trắng thí nghiệm (n = 5 / nhóm) được tiêm chủng dưới da 25 μg kháng nguyên ApxIIA #3, một protein mục tiêu kháng lại vi khuẩn A. pleuropneumoniae (vi khuẩn gây bệnh viêm màng phổi), cùng với phèn và / hoặc các cao chiết AMK ở các nồng độ khác nhau (0-500 μg), trong khi nhóm đối chứng chỉ nhận PBS. Tiêm chủng với kháng nguyên ApxIIA # 3 làm tăng hàm lượng IgG đặc hiệu với kháng nguyên và sự gia tăng này được tăng cường khi phối hợp với protein của AMK, mà không phải là polysaccharid của AMK. Tác dụng làm tăng phản ứng miễn dịch bảo vệ gây bởi kháng nguyên kháng A. pleuropneumoniae và tác dụng làm tăng sinh tế bào lympho đặc hiệu với kháng nguyên này của protein AMK phụ thuộc vào liều sử dụng. Các glycoprotein có trong cao chiết AMK là các thành phần hoạt chất chịu trách nhiệm cảm ứng đáp ứng miễn dịch. Tóm lại, nghiên cứu này đã chứng minh glycoprotein của AMK rất hữu ích với vai trò là chất bổ trợ hoặc chất tăng cường bổ trợ kích thích miễn dịch.

Lê Thị Xoan

 

  1.  

CẢI TIẾN PHƯƠNG PHÁP  SELENYL HÓA POLYSACCHARID CỦA BẠCH TRUẬT VÀ ĐÁNH GIÁ HOẠT TÍNH CHỐNG OXY HÓA

 

Ranran Hou và cs.

Advances in Polymer Technology,Volume 2019, Article ID 8191385, 8 pages
https://doi.org/10.1155/2019/8191385, Published 1 April 2019

 

Polysaccharid của bạch truật (AMP) được chiết xuất bằng phương pháp kết tủa chiết xuất cồn – nước và được tinh chế thêm bằng cột DEAE. Sau đó, các polysaccharid được biến đổi bằng phương pháp acid nitric -sodium selenite và thu được chín loại AMPs selenyl hóa (sAMPs), cụ thể là, từ sAMP1 đến sAMP9. AMP và sAMP được đặc trưng bằng phép đo phổ FTIR. Sau đó, các hoạt tính chống oxy hóa của AMP và sAMP in vitro được đo bằng thử nghiệm bắt gốc tự do. Trong số này, sAMP6 cho tác dụng chống oxy hóa mạnh nhất. Đối với thử nghiệm in vivo, những con gà được tiêm chủng với vắc-xin ND ở ngày 14 sẽ được tiêm vắc-xin nhắc lại vào ngày 28. Những con gà trong nhóm sAMP và AMP được tiêm tương ứng với 1 mg sAMP6 và AMP và, trong nhóm chứng tiêm chủng (VC) và nhóm BC, được tiêm nước muối sinh lý với thể tích tương đương. Tương ứng, sau khi tiêm vắc-xin đầu tiên, vào các ngày 7, 14, 21 và 28, hoạt độ các enzym GSH-Px và SOD và hàm lượng MDA trong huyết thanh được xác định. Kết quả cho thấy sAMP6 làm gia tăng đáng kể hoạt độ các enzym GSH-Px và SOD và giảm hàm lượng MDA. Tất cả những kết quả này chỉ ra rằng phương pháp selenyl hóa sửa đổi có thể làm tăng đáng kể tác động chống oxy hóa của AMP.

Đặng Minh Tú

  1.  

HIỆU QUẢ CHỐNG UNG THƯ, KHÁNG VIRUS VÀ CHỐNG VIÊM CỦA TINH DẦU TỪ BACH TRUẬT ĐƯỢC CHẾ BIẾN VỚI CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÁC NHAU

 

Sihao Gu và cs.

Molecules 2019, 24(16), 2956; https://doi.org/10.3390/molecules24162956

Published: 15 August 2019

 

Bạch truật đã được sử dụng ở Trung Quốc như một loại thuốc tỳ tạng tăng sinh lực, loại bỏ đờm ứ. Theo các nghiên cứu gần đây, các phương pháp chế biến khác nhau có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của thuốc, vì vậy chúng tôi đã thu thập bạch truật từ tỉnh Chiết Giang, được sản xuất với các phương pháp chế biến khác nhau, A. macrocephala (CA) thô và A. macrocephala (BA) tinh chế, sau đó đã phân tích các loại tinh dầu của nó (EOs) bởi phương pháp sắc ký khí kết hợp với khối phổ (GC/MS). Kết quả cho thấy có 34 hợp chất chiếm 98,44% EOs tổng của CA đã được xác định và 46 hợp chất chiếm 98,02% EOs tổng của BA đã được xác định. Atractylon là hợp chất chính trong bạch truật. So với CA, BA có 46 hợp chất được phát hiện, 28 trong số đó đã được biết và 6 hợp chất chưa được phát hiện trước đây. Kết quả động dược học cho thấy EOs của CA và atractylon thể hiện tác động chống ung thư hiệu quả hơn trong các dòng tế bào HepG2, MCG804 và HCT-116 so với EOs của BA; trong khi các EOs của BA thể hiện tác dụng kháng virus đơn giản đối với virus H3N2, cả EOs và atractylon đều có tác động chống viêm bằng cách ức chế sản xuất oxid nitric (NO) gây bởi lipopolysacarid (LPS) trong các tế bào ANA-1.

Đặng Minh Tú

  1.  

TÁC DỤNG CỦA SELEN ĐỐI VỚI KHẢ NĂNG CHỐNG OXY HÓA CỦA ATRACTYLODES MACROCEPHALA KOIDZ. DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA STRESS CADMIUM

 

ZHANG Mei-de và cs.

Journal of Southern Agricultur, 2014, Vol.45 No.7 pp.1211-1214 ref.18

 

Mục tiêu: Tác dụng bảo vệ của selen (Se) chống lại stress cadmium (Cd) trong cây giống Atractylodes macrocephala (bạch truật) đã được ghi nhận để cung cấp tài liệu tham khảo cho việc kiểm soát ô nhiễm kim loại nặng trong canh tác cây trồng này. 

Phương pháp: Thí nghiệm thủy canh của cây bạch truật được thực hiện trong môi trường 1/2 Hoagland. Một tháng sau, môi trường tăng trưởng được bổ sung 4 mmol / L Cd dưới dạng CdCl2 và các nồng độ khác nhau của Se (10, 20, 40, 60, 80 và 100 mol / L) dưới dạng Na2SeO3. Se và Cd không được thêm vào nhóm chứng. Lá được thu hoạch (48 giờ sau khi điều trị) để nghiên cứu các chỉ số sinh lý.

Kết quả: Stress cadmium dẫn đến sự gia tăng đáng kể hàm lượng H2O2 và MDA, trong khi đó hoạt động của các enzym chống oxy hóa SOD và CAT giảm, điều đó có nghĩa là có tổn thương oxy hóa trong bạch truật gây ra bởi stress Cd. Dưới điều kiện stress Cd, hệ thống chống oxy hóa của cây bạch truật có các phản ứng khác nhau khi các nồng độ Se khác nhau được thêm vào. Nồng độ tương đối thấp của Se (10-60 μmol / L) cung câp đã làm giảm hàm lượng H2O2 và MDA, và làm tăng các hoạt động của SOD và CAT, có nghĩa là có ít tổn thương oxy hóa hơn trong bạch truật. Tuy nhiên, nồng độ Se tương đối cao hơn (80- 100 μmol / L) làm tăng sản xuất H2O2 và MDA, và giảm các hoạt động của SOD và CAT, điều đó có nghĩa là tổn thương oxy hóa gây ra bởi stress Cd không giảm. 

Kết luận: Nồng độ selenium từ 10-60 μmol / L thuận lợi cho việc tăng cường khả năng chống oxy hóa của cây bạch truật (Atractylodes macrocephala) được gieo trồng.

Lê Đức Tâm

 

  1.  

THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU CHỌN  GIỐNG BẠCH TRUẬT (ATRACTYLODES MACROCEPHALA KOIDZ.)

 

Yi SiRong và cs.

China Journal of Traditional Chinese Medicine and Pharmacy (2014), Vol 29, No 3: 826-828

 

 

Bạch truật (Atractylodes macrocephala Koidz.) là một trong những loại dược liệu được sử dụng phổ biến ở Trung Quốc. Để tìm hiểu quá trình nghiên cứu chọn giống và cung cấp tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu chọn giống sau này, bài tổng quan này đã phân tích tóm tắt những kết quả nghiên cứu về chọn giống, nuôi cấy mô, ứng dụng đa bội thể trong chọn giống và các nội dung nghiên cứu khác liên quan đến cây bạch truật. Qua phân tích các tài liệu trước đây cho thấy các nghiên cứu chọn giống cây bạch truật bắt đầu tương đối muộn, và phương pháp cũng rất đơn giản. Mặc dù trong gần mười năm đã có nhiều báo cáo liên quan đến chọn giống cây bạch truật nhưng lại thiếu các nghiên cứu ứng dụng cho sản xuất trên quy mô lớn, và trong tương lai các nghiên cứu này cần được tăng cường.

 

Trịnh Minh Vũ

  1.  

PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN CỦA CÁC RÀO CẢN TRONG ĐỘC CANH LIÊN TỤC CÂY BẠCH TRUẬT (ATRACTYLODES MACROCEPHALA KOIDZ) Ở HUYỆN BÌNH GIANG VÀ CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC

 

Rong SONG và cs.

Agricultural Science & Technology (2015), Vol. 16, No 3: 462-466

 

 

Bài báo mở đầu bằng việc đưa ra khái niệm và những tác hại của việc độc canh cây trồng liên tục trong nhiều vụ. Sau đó, bài báo phân tích nguyên nhân dẫn đến các rào cản trong độc canh liên tục cây bạch truật (Atractylodes macrocephala Koidz.). Nhằm đưa ra khuyến cáo cho việc phát triển bền vững nguồn nguyên liệu bạch truật tại Bình Giang, bài báo đã đưa ra một số biện pháp hạn chế tác hại của việc độc canh bạch truật, bao gồm chọn giống có sức đề kháng cao; áp dụng luân canh và xen canh hợp lý; bón phân hợp lý và khử trùng đất; sử dụng vi khuẩn đối kháng và đào thải độc tố.

 

Trịnh Minh Vũ

  1.  

PHƯƠNG PHÁP TRỒNG BẠCH TRUẬT  (ATRACTYLODES MACROCEPHALA KOIDZ)

 

Ying Ling và cs.

中华人民共和国国家知识产权局 (2015)

 

Kết quả nghiên cứu trồng bạch truật (Atractylodes macrocephala Koidz.) bao gồm: Chọn đất cát pha có độ phì trung bình, thoát nước tốt, tơi xốp và mát, bón vôi với mức 23 kg/mu (1mu = 0,067ha) và cày sâu 10 cm; Chọn hạt giống chắc mẩy và không có sâu bệnh hại, ngâm trong nước ấm ở nhiệt độ từ 25oC đến 30oC trong 24 giờ nhằm tăng tốc độ nảy mầm; lên luống có chiều rộng từ 1,2 m đến 1,3 m và chiều dài từ 3 m đến 3,5 m; Tưới phun trên mặt luống, sau khi nước thấm xuống dưới và bề mặt luống hơi khô, gieo hạt với khoảng cách cách hàng là 18 cm; Cây con hình thành sau khi gieo hạt khoảng 15 ngày . Bạch truật được trồng xen với cúc Nendranthema indicum trong vườn ươm trước khi được đem trồng vào mùa đông. Trồng xen cây giống bạch truật và cúc Nendranthema indicum có thể hạn chế các bệnh truyền qua đất, giải quyết được vấn đề tồn dư thuốc bảo vệ thực vật do sử dụng thuốc phòng trừ sâu bệnh, giảm hiệu quả tỷ lệ mắc bệnh cháy lá và thối rễ bạch truật, cải thiện chất lượng dược liệu.

Trịnh Minh Vũ

  1.  

PHƯƠNG PHÁP CANH TÁC NHẰM NGĂN NGỪA BỆNH ĐỐM LÁ TRÊN CÂY BẠCH TRUẬT (ATRACTYLODES MACROCEPHALA KOIDZ)

 

Jing Han và cs

中华人民共和国国家知识产权局 (2017)

 

Nghiên cứu liên quan đến phương pháp canh tác nhằm ngăn ngừa bệnh đốm lá trên bạch truật (Atractylodes macrocephala Koidz). Phương pháp này bao gồm 02 biện pháp tổng hợp là: Biện pháp A: quản lý quy trình canh tác, trong đó bao gồm các bước: chọn giống kháng bệnh; b: lựa chọn địa điểm trồng phù hợp; c: làm đất và lên luống; d: bón phân khoa học; e: luân canh hợp lý. Biện pháp B: phòng trừ bằng hóa học, trong đó: kết hợp chặt chẽ giữa quản lý quy trình canh tác và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có độ độc và lượng tồn dư thấp từ đó hạn chế hiệu quả các bệnh hại trên bạch truật và đảm bảo chất lượng dược liệu. Tỷ lệ xuất hiện của bệnh đốm lá được hạn chế trong mức 12%, hiệu quả kiểm soát có thể đạt 89%, cây bạch truật sinh trưởng và phát triển tốt, năng suất có thể tăng 25,3%, tăng thu nhập bình quân cho người trồng mỗi năm thêm 800 nhân dân tệ cho mỗi mu (1mu = 0,067ha). Phương pháp này góp phần mở rộng và phát triển ổn định, lâu dài của ngành sản xuất dược liệu bạch truật.

Trịnh Minh Vũ

  1.  

SO SÁNH CÁC ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG VÀ HÀM LƯỢNG HOẠT CHẤT CỦA CÁC GIỐNG LAI KHÁC LOÀI TRONG CHI  ATRACTYLODES

 

Jeong, Jin Tae và cs.

Korean Journal of Medicinal Crop Science 2018, Vol 26, No 3:220-226

 

Đặt vấn đề: Atractylodes japonica Koidz. và Atractylodes macrocephala Koidz thuộc họ Cúc. Thân rễ của chúng được sử dụng trong y học cổ truyền. Để giải quyết một số vấn đề trong trồng trọt, gần đây chúng tôi đã phát triển 8 giống lai từ 2 loài A. japonica and A. macrocephala. Nghiên cứu này được thực hiện để sàng lọc các giống lai có hàm lượng hoạt chất và năng suất cao.

Phương pháp và kết quả: Thí nghiệm được tiến hành với 8 giống lai và một giống bạch truật làm giống đối chứng tại khu ruộng nghiên cứu của Khoa nghiên cứu cây dược liệu tại Eumseong, Hàn Quốc. Chúng tôi đã nghiên cứu các đặc điểm sinh trưởng của cây qua các bộ phận trên và dưới mặt đất. Trong số các giống cây, 'Sanwon' có trọng lượng thân rễ khô cao nhất (53,8 g/cây), tiếp theo là 'Dachul' (50,0 g / cây). Ngoài ra, hàm lượng atractylenolid I, II, III và  hàm lượng hoạt chất tổng số đã được nghiên cứu bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao. So với bạch truật, hầu hết các giống lai đều có hàm lượng hoạt chất và cho năng suất cao hơn.

Kết luận: Thông qua nghiên cứu, chúng tôi đã xác định được giống lai khác loài trong chi Atractylodes có chất lượng vượt trội, nhất là giống 'Dachul' có thể được trồng như một giống chất lượng với hàm lượng hoạt chất cũng như năng suất cao.

 Lê Hồng Hạnh, Đặng Minh Tú

  1.  

ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT LƯỢNG ÁNH SÁNG ĐÈN LED ĐẾN SỰ SINH TRƯỞNG VÀ SẮC TỐ QUANG HỢP CỦA BẠCH TRUẬT (ATRACTYLODES MACROCEPHALA)

 

J.J. Zhao và cs.

Acta Hortic. 1037, 849-854, 2014

 

Để đánh giá ảnh hưởng của chất lượng các loại ánh sáng khác nhau (ánh sáng trắng, đỏ, xanh và ánh sáng đỏ cộng với ánh sáng xanh) được chiếu xạ bằng đèn LED ở cường độ ánh sáng 100 µmol.m-2.s-1 đến sự sinh trưởng và hàm lượng sắc tố quang hợp của cây con bạch truật, một loại cây thuốc có giá trị cao của Trung Quốc, một thí nghiệm chậu vại đã được tiến hành trong tủ vi khí hậu. Bước sóng chính của đèn LED đỏ và đèn LED xanh lần lượt là 619 nm và 458 nm và tỷ lệ cường độ ánh sáng của ánh sáng đỏ cộng với ánh sáng xanh được xử lý là 1:1. Kết quả cho thấy chiều cao chồi của bạch truật dưới ánh sáng đỏ là cao nhất, trong khi đó thấp nhất dưới ánh sáng đỏ cộng với ánh sáng xanh. Tuy nhiên, trọng lượng rễ tươi và chiều dài rễ của bạch truật được xử lý bằng ánh sáng đỏ thấp hơn so với được xử lý bằng ánh sáng trắng, và không có sự khác biệt đáng kể giữa ba phương pháp xử lý bằng ánh sáng khác. Số liệu chỉ ra rằng tỷ lệ rễ và chồi dưới ánh sáng xanh là lớn nhất. Chất lượng ánh sáng không ảnh hưởng đến trọng lượng chồi tươi và hàm lượng sắc tố quang hợp của bạch truật. Kết quả cho thấy chất lượng ánh sáng đèn LED có thể điều chỉnh sự sinh trưởng của cây con bạch truật, mà không phải do sự thay đổi của hàm lượng sắc tố quang hợp.

Bùi Thị Xuân, Lương Vũ Đức, Lê Văn Giỏi  

  1.  

ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ THUẦN HÓA ĐẾN DI TRUYỀN QUẦN THỂ CỦA BẠCH TRUẬT- ATRACTYLODES MACROCEPHALA (HỌ CÚC -ASTERACEAE)

 

Chuan Chen và cs.

Journal of Systematics and Evolution, 22 June 2018, Evol. 9999 (9999): 1–12

 

Bạch truật (Atractylodes macrocephala Koidz.) là một loại thảo dược đã được canh tác qua nhiều thế kỷ ở Trung Quốc, và tài nguyên nguồn gen của tất cả quần thể trồng trọt đã bị suy thoái theo thời gian do hệ quả của quá trình thuần hóa. Nghiên cứu này đã sử dụng ADN lục lạp và vi vệ tinh để làm rõ không chỉ ảnh hưởng của sự thuần hóa đối với di truyền quần thể, mà còn xác định nguồn gốc địa lý của các giống địa phương. Kết quả cho thấy rằng các quần thể trồng trọt (ngoại trừ giống “Pingzhu”) thể hiện sự đa dạng di truyền cao hơn so với các quần thể hoang dại và sự khác biệt di truyền giữa các quần thể trồng và quần thể hoang dại ở mức độ thấp. Hơn nữa, các phân tích CẤU TRÚC và UPGMA đã chia tất cả các quần thể hoang dại thành ba cụm kiểu gen, hai trong số đó (ở tỉnh Thiểm Tây và Hồ Nam) đã có cùng một nhóm gen với bạch truật (A. macrocephala) trồng, cho thấy rằng quần thể hoang dại ở Hoa Trung có liên quan đến nguồn gốc của bạch truật (A. macrocephala ) trồng. Hơn nữa, quần thể hoang dại từ tỉnh Qimen, tỉnh An Huy và vùng trồng giống “Pingzhu” chứa nhóm gen độc nhất và các alen hiếm có thể hữu ích với những nỗ lực chọn giống trong tương lai. Sự phân tích bao quát này về di truyền quần thể trên một đối tượng cây dược liệu được con người chọn lọc qua hàng thế kỷ sẽ là tiền đề cho việc sử dụng và bảo tồn nguồn gen có giá trị của các loài cây dược liệu.

Tô Minh Tứ, Đặng Minh Tú

  1.  

PHÂN TÍCH HÌNH THÁI VÀ ĐA HÌNH ĐỘ DÀI NHÂN BẢN CHỌN LỌC (AFLP) CỦA CÂY TỨ BỘI BẠCH TRUẬT (ATRACTYLODES MACROCEPHALA)

 

Wang HJ và cs.

Zhongguo Zhong Yao Za Zhi, 2015 Feb;40(3):404-9

 

Để nghiên cứu cơ sở di truyền của biến đổi hình thái cây tứ bội bạch truật (Atractylodes macrocephala), cây lưỡng bội được lấy làm vật liệu thí nghiệm, màng lọc colchicin vô trùng đã được sử dụng để ngâm chồi dài 0,5-1 cm. Sự khác biệt giữa hình thái và khí khổng của cây bạch truật (A. macrocephala) lưỡng bội và tứ bội đã được so sánh, và tính đa hình của bộ gen đã được khám phá bởi kỹ thuật AFLP. Kết quả cho thấy chồi nhúng trong dung dịch colchicin 0,1% trong 36 giờ là điều kiện tối ưu để tạo ra cây bạch truật tứ bội với tỷ lệ cảm ứng là 32,0%. Các chỉ số hình thái như chỉ số diện tích lá, chiều dài và chiều rộng của lá, mật độ của khí khổng và số lượng lục lạp của cây tứ bội khác biệt rõ rệt với cây lưỡng bội. Bốn trăm năm mươi mốt dải băng khoảng từ 80-500 bp được khuếch đại với 24 cặp mồi, tỷ lệ đa hình là 32,59%. Các vị trí khuếch đại của cây bạch truật (A. macrocephala) lưỡng bội khác với tứ bội và sự khác biệt về hình thái của chúng được phản ánh trong đa hình DNA.

Tô Minh Tứ

  1.  

BẢO QUẢN LẠNH CHỒI ĐỈNH INVITRO BẠCH TRUẬT (ATRACTYLODES MACROCEPHALA KOIDZ.SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP THỦY TINH HÓA NHỎ GIỌT

 

Jin-mei Zhang và cs.

CryoLetters 36 (3): 195- 204 (2015)

 

Đặt vấn đề: Bạch truật (Atractylodes macrocephala Koidz.) là một loài cây dược liệu quan trọng từ Trung Quốc đã được sử dụng hàng ngàn năm với các hoạt tính dược lý chống oxy hóa đặc biệt, bảo vệ gan, chống viêm, chống dị ứng, chống huyết khối, chống vi rút và chống ung thư.

Mục tiêu: Mục đích của nghiên cứu này là phát triển một quy trình  thủy tinh hóa nhỏ giọt hiệu quả cho các chồi đỉnh A. macrocephala có thể được sử dụng trong bảo tồn dài hạn nguồn gen tại các ngân hàng gen.

Vật liệu và phương pháp: Thời gian của các bước tiền nuôi cấy, dung nạp và bước PVS2, cũng như công thức môi trường phục hồi, đã được tối ưu hóa để đạt được mức độ sống sót và tái sinh cao cho các chồi đỉnh A. macrocephala sau khi tiếp xúc với nitơ lỏng.

Kết quả: Mức độ sống sót và tái sinh sau khi bảo quản lạnh đối với giống “Baizhu” lần lượt cao tới 76% và 62%. Phân tích nhiệt sử dụng phép đo nhiệt lượng quét vi sai cho thấy rằng xử lý PVS2 đóng một vai trò quan trọng để bảo quản lạnh thành công.

Kết luận: Phương pháp thủy tinh hóa nhỏ giọt được thiết lập trong nghiên cứu này có thể được sử dụng để bảo quản lạnh A. macrocephala.

 

Lê Đức Tâm, Nguyễn Hải Văn)

  1.  

SỰ HẤP THỤ VÀ PHÂN BỐ NITƠ, PHỐT PHO VÀ KALI TRONG CÂY BẠCH TRUẬT

 

Zhong Yao Cai

Journal of Chinese Medicinal Materials 39(3):469-72 · March 2016

 

 

Mục tiêu: Nghiên cứu sự hấp thụ và phân bố nitơ (N), phốt pho (P) và kali (K) trong cây Bạch truật bằng thí nghiệm đồng ruộng.

Phương pháp: Các mẫu bạch truật được thu trong các giai đoạn phát triển khác nhau, và lượng chất khô và hàm lượng N, P và K trong các phần khác nhau của cây được xác định tương ứng.

Kết quả: Kết quả cho thấy bạch truật một năm tuổi ở giai đoạn nảy chồi và giai đoạn phát triển thân rễ là giai đoạn then chốt của sự hấp thụ nhanh chất dinh dưỡng, và nguyên tố dinh dưỡng được hấp thụ chủ yếu được phân bổ cho bộ phận trên mặt đất của bạch truật. Đối với bạch truật hai năm tuổi, giai đoạn ra hoa là giai đoạn quan trọng của sự hấp thụ nhanh chất dinh dưỡng, và nguyên tố dinh dưỡng được hấp thụ chủ yếu được phân bổ cho thân rễ. Mức độ hấp thụ N, P2O5 và K2O trung bình trên 100kg sản phẩm thân rễ của bạch truật hai năm tuổi lần lượt là 2,65; 0,91 và 2,16 kg.

Kết luận: Ngoài phân bón lót thích hợp, việc trồng trọt bạch truật một năm tuổi nên chú ý đến việc  bón thúc cho cây trong giai đoạn nảy chồi và giai đoạn phát triển thân rễ, trong khi việc trồng trọt bạch truật hai năm tuổi cần chú ý bón thúc giai đoạn ra hoa.

 

Lương Vũ Đức, Lê Văn Giỏi

  1.  

TÁC DỤNG KIỂM SOÁT CỦA VALIDAMYCIN ĐỐI VỚI BỆNH CHÁY LÁ TRÊN CÂY BẠCH TRUẬT

 

Huang Yajun và cs.

Plant Diseases and Pests 2018, 9(3-4): 27-28

 

Mục tiêu: Mục tiêu của nghiên cứu là tìm hiểu thuốc bảo vệ thực vật hiệu quả phòng trừ bệnh cháy lá cây bạch truật.

Phương pháp: Đánh giá hiệu quả phòng trừ bệnh cháy lá bạch truật của 60% validamycin A SP và so sánh với thuốc đối chứng là 20% bismerthiazol WP.

Kết quả: Sau khi phun lần thứ ba 14 ngày, hiệu quả kiểm soát của 60% validamycin A SP ở liều 495-540 g/hm2 là 76,9%, tương đương với thuốc 20% bismerthiazol WP với liều 270 g/hm2 (76,7%).

Kết luận: 60% validamycin A SP có thể được sử dụng phòng trừ bệnh cháy lá hiệu quả ở cây bạch truật, có triển vọng ứng dụng tốt và phổ biến trong sản xuất

Lương Vũ Đức, Nguyễn Hải Văn

  1.  

NHỮNG THAY ĐỔI CỦA HỆ VI SINH VẬT TRONG ĐẤT VÙNG RỄ BẠCH TRUẬT BỊ BỆNH KHI TÁI CANH

 

X.F.Yuan và cs.

South African Journal of Botany, Volume 127, September 2019: 129-135

 

Việc canh tác liên tục ảnh hưởng đáng kể đến năng suất và chất lượng của bạch truật do cây bị nhiễm hội chứng tái canh. Để tìm hiểu những thay đổi trong đất vùng rễ khi bạch truật bị bệnh tái canh, chúng tôi kiểm tra các đặc tính hóa lý của đất và hệ vi sinh vật. Kết quả cho thấy mức độ cao hơn của pH và hoạt động của enzym phosphatase trong đất  vùng  rễ của cây bị bệnh so với đất vùng rễ cây khỏe mạnh. Hơn nữa, ở vùng rễ cây bị bệnh, 42 loài vi khuẩn trong ngành Acidobacteria, Gemmatimonadetes, Nitrospirae, Elusimicrobia và Chlorobi có sự đa dạng cao hơn, trong khi 8 loài trong ngành của Actinobacteria, Bacteroidetes, Firmicutes và Fibrobacteres có sự đa dạng thấp hơn. Đặc biệt, số lượng một số vi khuẩn có lợi bao gồm SphingobiumHyphomicrobium lại giảm đi trong khi số lượng vi khuẩn gây bệnh như Asticcacaulis, Rhizomicrobium lại tăng lên ở đất vùng rễ cây bị bệnh tái canh. Đối với nấm, đất vùng rễ cây bị bệnh có 10 loài có mức đa dạng thấp hơn thuộc ngành Ascomycota và Glomeromycota. Tóm lại, sự mất cân bằng của hệ vi sinh vật trong đất vùng rễ của bạch truật gây ra bởi sự biến đổi của hệ vi sinh vật đất được coi là nguyên nhân chính của bệnh tái canh. Một số vi khuẩn như Sphingobium và một số loại nấm bao gồm Alternaria có liên quan chặt chẽ với bệnh tái canh.

Lương Vũ Đức

  1.  

SỰ XUẤT HIỆN VÀ THIỆT HẠI CỦA BỆNH THỐI RỄ BẠCH TRUẬT (ATRACTYLODES MACROCEPHALA KOIDZ.) VÀ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA TÁC NHÂN GÂY BỆNH

 

Yang ChengQian và cs.

Journal of Southern Agriculture 2018,Vol.49 No.8 pp.1561-1567 ref.14

 

Mục tiêu: Sự xuất hiện, tác nhân gây bệnh và đặc điểm sinh học của bệnh thối rễ bạch truật (Atractylodes macrocephala Koidz.) tại Trùng Khánh đã được làm rõ, qua đó cung cấp cơ sở lý thuyết cho việc dự đoán, phòng trừ bệnh này và chọngiống cây bạch truật kháng bệnh.

Phương pháp: Những thiệt hại và triệu chứng của bệnh thối rễ được điều tra định kỳ 30 ngày/lần từ tháng 3 đến tháng 8 năm 2017 tại Trùng Khánh. Sau đó, tác nhân gây bệnh thối rễ được phân lập và làm thuần bằng cách phân lập mô bệnh thông thường kết hợp quy tắc Koch. Vi khuẩn gây bệnh được xác định bởi các đặc điểm hình thái. Nghiên cứu các tác động của môi trường nuôi cấy, nguồn nitơ carbon, pH và nhiệt độ đến sự phát triển của sợi nấm và bào tử cũng được tiến hành.

Kết quả: Hai triệu chứng bao gồm thối thân rễ và thối rễ đã được quan sát trên đồng ruộng, trong đó thối thân rễ chiếm 69,68% tổng số cây con bị bệnh. Sau khi lây nhiễm hai loại tác nhân gây bệnh trên bốn mô hình canh tác bạch truật khác nhau, triệu chứng bệnh thối thân rễ xuất hiện trên hầu hết các cây con. Tác nhân gây bệnh chính được xác định là Fusarium oxysporum Schl. - thích hợp phát triển trong môi trường PSA. Nguồn carbon và nitơ tối ưu cho sự tăng trưởng sợi nấm là sucrose và glycine, nhưng nguồn carbon và nitơ cần cho sản sinh bào tử lần lượt là fructopyranose và leucine. Điều kiện sống tối ưu cho sự phát triển sợi nấm là 25 -30°C và pH 7, nhưng nó có thể phát triển ở 5-45°C và pH 3-11. Điều kiện sống tối ưu cho sự hình thành và nảy mầm của bào tử là 30°C và pH 6.

Kết luận: Hai triệu chứng, bao gồm thối thân rễ và thối rễ, được quan sát thấy ở bệnh thối rễ  bạch truật tại Trùng Khánh. Tác nhân gây bệnh chính là F. oxysporum. Biểu hiện triệu chứng bệnh có liên quan đến khả năng kháng bệnh khác nhau của các mô hình canh tác bạch truật.

 

Đặng Minh Tú

  1.  

ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI, PHÂN TỬ VÀ GÂY BỆNH CỦA ALTERNARIA LONGIPES, TÁC NHÂN GÂY BỆNH ĐỐM LÁ TRÊN BẠCH TRUẬT (ATRACTYLODES MACROCEPHALA)

 

Tan Guo-Yin và cs.

African journal of microbiology research 7(21):2589-2595, May 2013

 

Bệnh đốm lá đã được phát hiện tại vùng sản xuất bạch truật (Atractylodes macrocephala Koidz.) - một loại thảo dược lâu năm được sử dụng trong y học cổ truyền Trung Quốc tại huyện Panan của tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Khoảng 40% cây được điều tra trên đồng ruộng hè năm 2011 cho thấy các triệu chứng nghiêm trọng của đốm lá. Các mẫu nấm phân lập từ các mô lá bị nhiễm bệnh được nuôi cấy trên môi trường thạch đường khoai tây (PDA). Các đặc điểm hình thái của tản nấm và cấu trúc sinh bào tử đã được xác định. DNA chiết tách mẫunấm nuôi cấy được khuyếch đại bằng kỹ thuật PCR với các đoạn mồi ITS1F/ITS4 và Alt-for/Alt-rev cho các vùng đệm được phiên mã nội bộ (ITS) và gen Alternaria allergen (gen Alt 1) . Các sản phẩm PCR thu được đã được giải trình tự và so sánh tương đồng với các loài khác trong ngân hàng gen (GenBank). So sánh trình tự của gen Alt a1 cho thấy sự giống nhau 100% với  Alternaria longipes (Ellis & Everh.) E. W. Mason. Khả năng gây bệnh của mẫu nấm L3 đã được xác nhận bằng phương pháp lây bệnh nhân tạo trên cây bạch truật. Từ những kết quả trên, chúng tôi đã kết luận rằng A. longipes là tác nhân gây ra bệnh đốm lá trên cây bạch truật.

Lại Việt Hưng

  1.  

XÁC THỰC NGUỒN GỐC ĐỊA LÝ CỦA DƯỢC LIỆU BẠCH TRUẬT (BAIZHU) TRONG Y HỌC CỔ TRUYỀN TRUNG QUỐC BẰNG SỬ DỤNG CÁC PHÂN TÍCH ĐỒNG VỊ VÀ ĐA LƯỢNG ỔN ĐỊNH

 

Ling Hu và cs.

https://onlinelibrary.wiley.com/doi/pdf/10.1002/rcm.8519, First published: 02 July 2019, https://doi.org/10.1002/rcm.8519

 

Cơ sở lý luận: Bạch truật (Baizhu) là một loại dược liệu truyền thống có giá trị của Trung Quốc, trong đó nhóm dược liệu bạch truật có nguồn gốc từ tỉnh Chiết Giang là nổi tiếng nhất và giá trị hơn nhiều so với các loại có nguồn gốc từ các khu vực khác. Do sự khác biệt lớn về giá cả, việc ghi nhãn gian lận thường xảy ra. Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, nhà sản xuất và thương nhân trung thực, việc xây dựng các phương pháp đáng tin cậy để xác thực địa lý của dược liệu bạch truật là vô cùng cấp thiết.

Phương pháp: Các tỷ lệ đồng vị ổn định của 5 nguyên tố (C, N, H, O và S) trong các mẫu bạch truật có nguồn gốc từ bốn tỉnh của Trung Quốc được xác định bằng máy phân tích nguyên tố (EA) kết hợp với phép đo phổ khối đồng vị (IRMS) và hàm lượng của 45 thành tố trong các mẫu này được đo bằng phép đo khối phổ kết hợp plasma tự cảm (ICP ‐ MS). Phương pháp hóa học bao gồm PCA và OPLS ‐ DA đã được áp dụng cho dữ liệu thu được.

Các kết quả: Kết quả PCA cho thấy các kỹ thuật cho phép phân loại rõ ràng các mẫu bạch truật theo khu vực: A (tỉnh Chiết Giang), B (tỉnh Thiểm Tây) và C (tỉnh Hà Bắc và An Huy). Hơn nữa, OPLS ‐ DA sử dụng 27 biến chính cung cấp sự phân biệt chính xác 100% giữa các mẫu có nguồn gốc từ tỉnh Chiết Giang và các mẫu từ ba tỉnh còn lại.

Kết luận: Tỷ lệ đồng vị ổn định và phân tích đa lượng kết hợp với các phương pháp hóa học cho thấy tiềm năng lớn đối với việc xác thực địa lý của dược liệu bạch truật, cung cấp một phương pháp đầy hứa hẹn để kiểm soát ghi nhãn gian lận thường xảy ra với thuốc thảo dược truyền thống ở Trung Quốc.

Lại Việt Hưng

 

 

 

(Nguồn tin: )