Tin dịch
I. Actiso (Cynara scolymus L.)
XÂY DỰNG PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH LƯỢNG ĐỒNG THỜI CÁC HỢP CHẤT POLYPHENOL TRONG CAO KHÔ LÁ ACTISÔ (CYNARA SCOLYMUS L.) BẰNG SẮC KÝ LỎNG SIÊU CAO ÁP (UPLC-PDA)
Nguyen Nguyet A. T và cs.
Tropical Journal of Natural Product Research, 25 September 2023, 7(9): 3995 - 4002
Actisô (Cynara scolymus L.) được biết đến nhiều với các tác dụng hạ cholesterol, lợi tiểu, bảo vệ gan và chống oxy hóa, chủ yếu do chứa nhiều dẫn xuất của acid caffeoylquinic và flavonoid. Tuy nhiên, các phương pháp kiểm soát chất lượng hoạt chất trong actiso vẫn còn hạn chế. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xây dựng và thẩm định phương pháp định lượng đồng thời 12 hợp chất polyphenol có trong cao chiết và các sản phẩm thực phẩm bổ sung chứa actisô, sử dụng hệ thống sắc ký lỏng siêu hiệu năng cao ghép nối đầu dò mảng diode quang (UPLC-PDA). Các hợp chất được định lượng bao gồm: acid 1-caffeoylquinic, acid 3-caffeoylquinic, acid chlorogenic (acid 5-caffeoylquinic), acid 4-caffeoylquinic, cynarin (acid 1,3-dicaffeoylquinic), acid 3,4-dicaffeoylquinic, acid 3,5-dicaffeoylquinic, acid 1,5-dicaffeoylquinic, acid 4,5-dicaffeoylquinic, acid caffeic, scolymosid và cynarosid. Phương pháp đã được chứng minh về tính tương thích hệ thống, tính đặc hiệu và tuyến tính trong khoảng 1-500 µg/mL (R2 = 0,99). Ngoài ra, nghiên cứu còn áp dụng hiệu quả phương pháp để xác định hàm lượng polyphenol trong 19 sản phẩm khác nhau có chứa actisô. Kỹ thuật định lượng đồng thời này cung cấp một phương pháp đáng tin cậy để đánh giá thành phần polyphenol trong các sản phẩm khác nhau có chứa actisô..
Nguyễn Xuân Lan
CHIẾN LƯỢC ĐA PHÂN TÍCH TRONG ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG VÀ KIỂM TRA TÍNH XÁC THỰC CỦA THỰC PHẨM CHỨC NĂNG CHỨA ACTISÔ DÙNG TRONG KIỂM SOÁT THỪA CÂN
Adal Mena-García và cs.
Journal of Chromatography A, 21 June 2021, 1647
CHIẾT XUẤT, PHÂN ĐOẠN VÀ PHÂN LẬP CYNAROSID VÀ SCOLYMOSID TỪ ACTISÔ (CYNARA SCOLYMUS L.) TRỒNG Ở IRAQ
Mohammed M. Farhan và cs.
The Iraqi Journal of Agricultural Science, 2023, 54(2), 421-430.
Actisô (Cynara scolymus L.) là một loại rau giàu dinh dưỡng được trồng trên toàn thế giới. Actisô là một thảo dược triển vọng chứa nhiều hoạt chất. và được coi là dược liệu nhờ thành phần dinh dưỡng và thành phần hóa thực vật, đặc biệt là tỷ lệ cao các hợp chất polyphenol cao. Mục tiêu chính của nghiên cứu này là phân tích thành phần hóa học của actisô nhằm xác định các nhóm hoạt chất khác nhau có trong cây, đặc biệt là hai hợp chất scolymosid và cynarosid. Cao thô methanol được chiết từ lá actisô được cô quay dưới áp suất giảm và phân tách bằng sắc ký cột. Các phân đoạn được kiểm tra bằng sắc ký lớp mỏng (TLC) và xác định lại bằng sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC). Hai hợp chất quan trọng, scolymosid và cynarosid cũng đã được phân lập và xác định cấu trúc. Nhìn chung, actisô được nhận định là dược liệu giàu hợp chất có hoạt tính và chức năng sinh học với tác dụng chính là chống oxy hóa.
Đặng Đức Huy
TÁC DỤNG BẢO VỆ CỦA CAO CHIẾT ACTISÔ VÀ LỢI KHUẨN BIFIDOBACTERIUM LONGUM ĐỐI VỚI TÌNH TRẠNG VÔ SINH TRÊN CHUỘT CỐNG BỊ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
Zahra Ansari và cs.
Biochemistry and Biophysics Reports, 2024 Sep 23;40:101834
Tổng quan: Bệnh đái tháo đường là vấn đề sức khoẻ nghiêm trọng được quan tâm trên toàn thế giới và có vai trò điển hình đối với tình trạng vô sinh ở nam giới và các bất thường về hormon sinh dục do sự thay đổi cấu trúc tế bào của ống sinh tinh và làm giảm số lượng tinh nguyên bào. Nghiên cứu này đã tìm hiểu tác dụng của cao chiết cồn nước actisô (Cynara scolymus L.) và men vi sinh Bifidobacterium longum đối với hormon sinh dục, stress oxy hóa, con đường apoptosis và những thay đổi về mô bệnh học ở mô tinh hoàn của chuột cống trắng mắc bệnh đái tháo đường để tìm ra liệu pháp bổ trợ trong kiểm soát các biến chứng vô sinh do bệnh đái tháo đường gây ra.
Phương pháp: Trong thử nghiệm này, 96 con chuột đực được chọn ngẫu nhiên thành 8 nhóm. Nhóm đối chứng, nhóm giả dược (nước muối sinh lý), nhóm DM (STZ liều 60 mg/kg, i.p.), nhóm Cynara (uống 400 mg/kg cao chiết hydroalcohol actisô), nhóm BBL (uống 1 × 109 CFU/ml/ngày Bifidobacterium longum), nhóm DM + Cynara, nhóm DM + BBL và nhóm DM + Cynara + BBL. Sau 48 ngày cho uống, nồng độ đường huyết lúc đói (FBS) (), malondialdehyd (MDA), khả năng chống oxy hóa toàn phần (TAC), FSH (Follicle-stimulating hormone: hormon kích thích nang trứng), LH (Luteinizing hormone: hormon hoàng thể), testosteron, biểu hiện mRNA tinh hoàn của gen Protamin (prm1), BCL2 và caspase-9, cũng như những thay đổi qua phân tích cấu trúc tế bào đã được đo.
Kết quả: So với nhóm mắc bệnh đái tháo đường, cao chiết cồn nước của actisôkết hợp với men vi sinh Bifidobacterium longum làm giảm đáng kể nồng độ FBS (p < 0,001) và MDA (p < 0,05) và biểu hiện của gen caspase-9 (thay đổi gấp 1,33 lần). Ngoài ra, nồng độ TAC, LH, FSH, testosteron trong huyết thanh tăng đáng kể (p < 0,05). Biểu hiện mRNA của protamin (p = 0,016) và BCL2 (thay đổi gấp 0,72 lần) đã được phát hiện. Hơn nữa, khi so sánh với chuột đái tháo đường, nhóm được điều trị bằng actisô và Bifidobacterium longum cho thấy sự gia tăng đáng kể về số lượng tế bào gốc sinh dục, tổng trọng lượng, số lượng tinh trùng, khả năng di chuyển của tinh trùng, hình thái bình thường, thể tích tinh hoàn, thể tích và chiều dài của ống sinh tinh (p < 0,05).
Kết luận: Các phát hiện này chứng minh rằng bổ sung cao chiết actisôvà lợi khuẩn Bifidobacterium longum có tiềm năng điều trị cao, bao gồm các tác động chống oxy hóa, chống apoptosis, chống đái tháo đường, cải thiện chỉ số sinh sản và điều hòa hormon sinh dục.
Trần Viễn Thông
PHÂN TÍCH LC-MS/MS VÀ HOẠT TÍNH BẢO VỆ GAN CỦA CAO CHIẾT LÁ ACTISÔ (CYNARA SCOLYMUS L.) ĐỐI VỚI TÌNH TRẠNG BÉO PHÌ DO CHẾ ĐỘ ĂN GIÀU CHẤT BÉO Ở CHUỘT CỐNG
Maryem Ben Salem và cs.
BioMed Research International, 2019 May 23;2019:4851279
Actisô (Cynara scolymus L.) đã được sử dụng để điều trị các bệnh rối loạn chuyển hóa. Mục đích của nghiên cứu này là để tìm hiểu các tác dụng bảo vệ gan của cao chiết lá actisô trên chuột được cho ăn với chế độ ăn giàu chất béo (HFD). Nghiên cứu này khảo sát tác dụng chống tăng cholesterol máu và chống oxy hóa in vivo của cao chiết lá actisô giàu các hợp chất phenolic. Chuột ăn khẩu phần nhiều chất béo gây tăng calo (HFD) được điều trị bằng cao chiết ethanol (EEA) từ lá actisô liều 200 mg/kg và 400 mg/kg và atorvastatin (ATOR) (10 mg/kg/ngày) trong thời gian 8 tuần. Dữ liệu về lipid máu và tình trạng stress oxy hóa trong mô gan đã được xác định. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy rối loạn chức năng gan do HFD biểu hiện bằng mức độ bất thường điển hình của AST, ALT, ALP, LDH và OCT đi kèm với mức tăng các dấu ấn sinh học của stress oxy hóa (ROS, MDA và AOPP) và giảm hoạt động chống oxy hóa nội sinh của tế bào gan. Việc dùng đồng thời EEA làm giảm đáng kể các chỉ số lipid huyết và các rối loạn ở gan về mặt mô học như giảm lắng đọng mỡ trong gan ở thùy gan. Những phát hiện này cho thấy lá actisô có tác dụng chống béo phì và chống oxy hóa ở gan chuột bị béo phì do HFD.
TÁC DỤNG PHÒNG NGỪA CỦA ACTISÔ (CYNARA SCOLYMUS L.) ĐỐI VỚI RỐI LOẠN CHỨC NĂNG THẬN DO BÉO PHÌ GÂY RA BỞI CHẾ ĐỘ ĂN NHIỀU CHẤT BÉO Ở CHUỘT CỐNG TRẮNG
Archives of Physiology and Biochemistry. 2022 Jun; 56(6): 3714-3720.
Chế độ ăn nhiều chất béo (HFD) thúc đẩy quá trình stress oxy hóa, góp phần gây ra rối loạn chức năng thận. Nghiên cứu đã khảo sát tác dụng bảo vệ của cao chiết ethanol lá actisô ((Cynara scolymus L., EEA) so với atorvastatin (ATOR) trên thận của chuột Wistar được cho ăn chế độ ăn nhiều chất béo. Các động vật thí nghiệm được chia thành năm nhóm: nhóm đối chứng (Cont), HFD, HFD được điều trị bằng EEA (200 mg/kg), HFD được điều trị bằng EEA (400 mg/kg) và HFD được điều trị bằng ATOR. Trọng lượng cơ quan, hồ sơ lipid máu, các marker đánh giá chức năng thận và các enzyme chống oxy hóa đã được đo lường. Việc uống EEA (200 và 400 mg/kg) trong 60 ngày cho thấy trọng lượng cơ quan và mức độ biểu hiện các marker đánh giá chức năng thận giảm đáng kể kèm theo giảm các marker về stress oxy hóa so với nhóm HFD. Các phát hiện mô học cho thấy cao chiết actisô có tác dụng bảo vệ thận. Những phát hiện này cho thấy EEA thể hiện tác dụng chống oxy hóa trên thận ở những con chuột béo phì do HFD.
Hoàng Thị Phương Thảo
TÁC DỤNG PHÒNG NGỪA CỦA CHIẾT XUẤT HYDROETHANOLIC TỪ LÁ VÀ HOA ACTISÔ (CYNARA SCOLYMUS L.) CHỐNG LẠI UNG THƯ PHỔI DO DIETHYLNITROSAMIN/ACETYLAMINOFLOUREN GÂY RA Ở CHUỘT WISTAR
Adel abdel-moneim và cs.
Environmental Science and Pollution Research. 2021 Aug; 28(32):43515-43527.
Nghiên cứu này đánh giá tác dụng phòng ngừa ung thư phổi của chiết xuất hydroethanolic từ lá actisô ((Cynara scolymus L., ALE) và chiết xuất hydroethanolic hoa actisô (AFE) đối với ung thư phổi do diethylnitrosamin (DEN)/acetylaminofluoren (AAF) gây ra ở chuột Wistar. Để gây ung thư phổi bằng phương pháp hóa học, DEN được tiêm phúc mạc chuột với tần suất hai lần một tuần trong thời gian hai tuần với liều 150 mg/kg trọng lượng cơ thể (bw), sau đó bổ sung AAF qua đường uống bốn lần một tuần trong vòng 3 tuần với liều 20 mg/kg trọng lượng cơ thể. Những con chuột được dùng DEN/AAF được bổ sung ALE hoặc AFE qua đường uống với liều 100 mg/kg trọng lượng cơ thể trong 17 tuần bắt đầu từ tuần đầu tiên tiêm DEN đến tuần thứ 17 của thí nghiệm. Các tổn thương ung thư phổi do dùng DEN/AAF đã được cải thiện đáng kể nhờ điều trị bằng ALE và AFE được quan sát trong đánh giá mô học phổi. Ngoài ra, còn có sự giảm đáng kể quá trình peroxy hóa lipid ở phổi, với sự gia tăng hoạt động của các enzym chống oxy hóa gồm glutathione-S-transferase, glutathion peroxidase, glutathion reductase và superoxid dismutase cũng như hàm lượng glutathion ở những con chuột có bổ sung DEN/AAF được điều trị bằng ALE và AFE so với nhóm đối chứng DEN/AAF. Sự biểu hiện của protein ức chế khối u phổi (p53) và mRNA tế bào lympho B-cell-2 (Bcl-2) tăng đáng kể ở những con chuột được điều trị bằng ALE và AFE. Tóm lại, các phát hiện cho thấy ALE và AFE tạo ra tác dụng phòng ngừa ung thư ở chuột mắc ung thư phổi do DEN/AAF thông qua việc ức chế stress oxy hóa và cải thiện quá trình cảm ứng tín hiệu apoptosis.
TỐI ƯU HÓA QUÁ TRÌNH CHIẾT XUẤT INULIN VÀ POLYPHENOL TỪ CHẤT THẢI RẮN CỦA CÂY ACTISÔ (CYNARA SCOLYMUS L.) BẰNG PHƯƠNG PHÁP BỀ MẶT ĐÁP ỨNG
Esperanza M. Garcia-Castello và cs.
Applied sciences. 2022 August; 12(16): 7957
Phế thải từ cây actisô (Cynara scolymus L.) sau quá trình chế biến chiếm 60–70% nguyên liệu thô và là nguồn tiềm năng của inulin và polyphenol, các hoạt chất có thể được tận dụng làm thành phần của các thực phẩm hoặc thực phẩm chức năng. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá và tối ưu hóa quá trình chiết xuất các hợp chất này từ phế phẩm của cây actisô bằng cách sử dụng nước hoặc hỗn hợp nước-ethanol làm dung môi chiết xuất. Để chiết xuất đồng thời inulin và polyphenol có hoạt tính chống oxy hóa cao, điều kiện tối ưu với nước là T = 89°C và t = 139 phút, đạt được 80% hàm lượng inulin, 60% tổng hàm lượng phenolic (TPC) và 56% hoạt tính chống oxy hóa (Aox). Đối với quá trình chiết xuất bằng nước-ethanol, kết quả tốt nhất đạt được với EtOH = 22,4%, T = 81°C và t = 217 phút, dẫn đến hiệu suất chiết xuất 90% TPC, 38% Aox và 58% hàm lượng inulin. Từ những kết quả này, nghiên cứu khuyến nghị sử dụng nước để thu hồi inulin và polyphenol từ chất thải cây actisô. Mặc dù hiệu suất chiết xuất polyphenol thấp hơn trong các quá trình sử dụng nước, lượng polyphenol thu được vẫn đáng kể và đây là lựa chọn thân thiện với môi trường hơn so với hỗn hợp nước-ethanol.
Trần Anh Quang
TỐI ƯU HÓA QUY TRÌNH CHIẾT XUẤT ĐỂ XÁC ĐỊNH ACID PHENOLIC VÀ FLAVONOID TRONG LÁ ACTISÔ (CYNARA CARDUNCULUS VAR. SCOLYMUS L.)
Beate Stumpf và cs.
Journal of Pharmaceutical and Biomedical Analysis. 2020 January; 177: 112879
Cây actisô (Cynara cardunculus var. scolymus L.) không chỉ được sử dụng như một loại rau và cây cảnh, mà còn là một loài cây thuốc quan trọng trong điều trị các rối loạn tiêu hóa. Dược điển Châu Âu mô tả một phương pháp để đánh giá chất lượng lá artisô khô, tuy nhiên phương pháp này tốn thời gian và yêu cầu lượng lớn dung môi hữu cơ. Trong nghiên cứu này, một phương pháp chiết xuất hỗ trợ bằng sóng siêu âm đã được nghiên cứu, cho thấy hiệu quả vượt trội hơn so với phương pháp chuẩn của Dược điển Châu Âu, vì mang lại kết quả tương đương, nhanh hơn, dễ thực hiện hơn và bền vững hơn nhờ giảm thiểu sự cần thiết của dung môi hữu cơ.
Nguyễn Phú Quang
TẬN DỤNG PHẾ THẢI NÔNG -CÔNG NGHIỆP CỦA CÂY ACTISÔ (CYNARA SCOLYMUS), THU ĐƯỢC DỊCH CHIẾT CÓ TÁC DỤNG CHỌN LỌC ĐỐI VỚI KHẢ NĂNG SỐNG SÓT CỦA CÁC DÒNG TẾ BÀO UNG THƯ
Diana Noriega-Rodríguez và cs.
Processes. 2020 June; 8(6): 715
Cây actisô (Cynara scolymus L.) được coi là một trong những nguồn cung cấp các hợp chất phenolic chống oxy hóa quan trọng nhất trong tự nhiên. Tuy nhiên, hơn 60% tổng khối lượng của nó bị loại bỏ trong quá trình tiêu thụ, tạo ra một nguồn nguyên liệu dồi dào, giá rẻ và có lợi nhuận từ các chất chống oxy hóa tự nhiên trong các phần bị loại bỏ này. Các chất chống oxy hóa polyphenolic từ giống cây actisô Nam Mỹ được thu hoạch từ các phế phẩm nông công nghiệp (bao gồm các lá ngoài và thân cây) đã được chiết xuất bằng các phương thường quy. Kết quả tốt nhất đạt được ở nhiệt độ 40°C, với 75% ethanol và thời gian 10 phút, thu được 2,16 g acid gallic quy đổi (GAE)/100 g phenolic tổng số (TPC) và hoạt tính chống oxy hóa (qua thử nghiệm đánh giá khả năng hấp thụ gốc tự do oxy, ORAC) đạt 55.472,34 µmol Trolox quy đổi (TE)/100 g. Phân tích sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) cho thấy các acid caffeoylquinic chiếm đến 85% tổng lượng polyphenol, trong khi flavonoid chỉ chiếm khoảng 5%. Hàm lượng inulin trong các phế phẩm cây actiso đã được phục hồi (48,4% trọng lượng khô (dw)), tạo ra một cao chiết có 28% inulin cùng với khả năng chống oxy hóa đã đề cập ở trên. Cao chiết từ phế phẩm cây actisô với nồng độ 500 mg/L đã làm giảm mạnh sự sống sót của các dòng tế bào ung thư Caco-2 và MCF-7, trong khi các nguyên bào sợi khỏe mạnh vẫn duy trì sự sống sót khi cao chiết được cô đặc ở nồng độ 1500 mg/L. Các kết quả này gợi ý rằng cao chiết từ cây actisô có tác dụng chống tăng sinh tốt đối với các dòng tế bào Caco-2 và MCF-7.
CƠ CHẾ CHUNG CHO CHIẾT XUẤT CÓ HỖ TRỢ SIÊU ÂM (UAE) ĐƯỢC ĐỀ XUẤT TỪ KẾT QUẢ CHIẾT ACID CHLOROGENIC TỪ LÁ ACTISÔ (CYNARA SCOLYMUS L.)
I. A. Saleh và cs.
Ultrasonics Sonochemistry. 2016 July; 31: 330-336
Việc sử dụng phương pháp chiết xuất có hỗ trợ siêu âm (UAE) để tách acid chlorogenic (CA) từ lá atisô (Cynara scolymus L.) bằng methanol 80% ở nhiệt độ phòng trong 15 phút đã giúp tăng đáng kể về hiệu suất chiết (lên đến 50%) so với phương pháp ngâm chiết ở nhiệt độ phòng và gần bằng hiệu suất thu được khi đun hồi lưu trong cùng khoảng thời gian. Cần lưu ý khi so sánh UAE với phương pháp chiết Soxhlet, vì trong phương pháp Soxhlet, dung môi đi vào bộ chiết có nồng độ methanol cao hơn (gần 100%) so với dung môi trong bình chứa (80% methanol) do quá trình phân đoạn trong quá trình chưng cất. Cơ chế của UAE được thảo luận dựa trên tác động của hiện tượng xâm thực (cavitation) đối với chỉ số trương nở, sự khuếch tán dung môi và sự loại bỏ lớp dung môi tĩnh bao quanh nguyên liệu thực vật.
Lê Thị Phương
HOẠT TÍNH CHỐNG OXY HÓA CỦA CAO CHIẾT CYNARA SCOLYMUS L. VÀ CYNARA CARDUNCULUS L. THU ĐƯỢC BẰNG CÁC KỸ THUẬT CHIẾT XUẤT KHÁC NHAU
Eleni Kollia và cs.
Natural Product Research. 2017; 31(10): 1163-1167
Cao chiết từ các bộ phận khác nhau (đầu hoa, lá bắc và thân) của Cynara cardunculus L. (cây cardoon) và Cynara scolymus L. (cây actisô), thu được bằng hai kỹ thuật chiết xuất khác nhau (chiết xuất có hỗ trợ siêu âm – UAE và chiết xuất cổ điển – CE), đã được phân tích và so sánh về hàm lượng phenolic tổng số (TPC) và hoạt tính chống oxy hóa. Ngoài ra, dịch chiết từ các bộ phận của cây cũng được phân tích và so sánh với các mẫu trên. Kết quả cho thấy, chiết xuất từ đầu hoa của cây cardoon (thu được bằng phương pháp chiết xuất hỗ trợ siêu âm) có giá trị TPC cao nhất (1,57 mg đương lượng acid gallic (GAE) trên mỗi gam khối lượng tươi), khả năng bắt giữ gốc tự do DPPH• tốt nhất (IC50 = 0,91 mg/ml) và khả năng bắt giữ gốc ABTS•+ cao nhất (2,08 mg đương lượng Trolox (TE) trên 1 gam khối lượng tươi) so với các dịch chiết và mẫu chiết xuất khác.
Hơn nữa, kỹ thuật chiết xuất hỗ trợ siêu âm được chứng minh là phù hợp và hiệu quả hơn trong việc chiết xuất các hợp chất phenolic và chất chống gốc tự do.
Phan Thanh Thủy
MỘT QUY TRÌNH THÂN THIỆN VỚI MÔI TRƯỜNG ĐỂ SẢN XUẤT CÁC CAO CHIẾT GIÀU HOẠT CHẤT CHỐNG OXY HÓA PHENOLIC TỪ Ô LIU (OLEA EUROPAEA L.) VÀ ACTISÔ (CYNARA SCOLYMUS L.)
Annalisa Romani và cs.
E. F. Research and Technology. 2017; 243: 1229-1238
Một công nghệ chiết xuất bền vững kết hợp với phương pháp tách màng đã được áp dụng cho Olea europaea L. (lá và thịt quả ô liu đã bỏ hạt) và các sản phẩm phụ của Cynara scolymus L. (lá và thân cây actisô) để thu được các chiết xuất thương mại tiêu chuẩn hóa để ứng dụng trong ngành công nghiệp thực phẩm chức năng, dược phẩm và mỹ phẩm. Toàn bộ quy trình, đã được đăng ký bằng sáng chế (PCT), bao gồm chiết xuất bằng nước từ nguyên liệu thực vật nói trên và các bước phân đoạn: (1) Vi lọc (chỉ áp dụng cho Olea); (2) Siêu lọc (chỉ áp dụng cho Cynara); (3) Lọc nano (chỉ áp dụng cho Olea); (4) Thẩm thấu ngược và cô đặc cuối cùng bằng bay hơi ở nhiệt độ thấp hoặc kỹ thuật sấy phun. Nhờ các bước xử lý này, có thể thu được các phân đoạn khác nhau giàu các hợp chất phenolic có giá trị kinh tế. Các phân đoạn này được đặc trưng và định lượng bằng HPLC/DAD-ESI/MS, sau đó được kiểm tra khả năng chống gốc tự do và hoạt tính chống oxy hóa. Các giá trị EC50 theo thử nghiệm DPPH là: 6,76 × 10⁻³ mM đối với cao mềm từ lá xanh Olea (GL), 5,44 × 10⁻³ mM đối với cao mềm từ lá khô Olea (DL), 1,22 × 10⁻³ mM đối với cao mềm Olea giàu hydroxytyrosol (OH-Tyr). Giá trị EC50 của cao mềm từ lá xanh Cynara là 3,25 × 10⁻³ mM. Kết quả ORAC là 3632 ± 110,7 µmol TE/g đối với cao mềm OH-Tyr Olea, 1410 ± 62,1 µmol TE/g đối với cao mềm GL Olea, 760 ± 12 µmol TE/g đối với cao mềm GL Cynara khẳng định hoạt tính chống oxy hóa cao nhất của hydroxytyrosol.
CHIẾT XUẤT PECTIN BẰNG ENZYME TỪ PHỤ PHẨM CỦA ACTISÔ (CYNARA SCOLYMUS L.) SỬ DỤNG CELLUCLAST®1.5L
Carlos Sabater và cs.
Carbohydrate Polymers. 2018 June; 190(15): 43-49
Mục tiêu của nghiên cứu này là tối ưu hóa quá trình chiết xuất pectin từ phụ phẩm actisô bằng enzyme Celluclast®1.5L thông qua thiết kế thực nghiệm và phân tích bằng phương pháp bề mặt đáp ứng (RSM). Các biến số được tối ưu hóa bao gồm nồng độ bột phụ phẩm actisô (2–7%, X1), liều lượng enzyme (2,2–13,3 U g⁻¹, X2) và thời gian chiết xuất (6–24 giờ, X3). Các chỉ tiêu đánh giá gồm hàm lượng acid galacturonic (GalA) (R² = 93,9), đường trung tính pectic (R² = 92,8) và hiệu suất thu hồi pectin (R² = 88,6). Trong điều kiện chiết xuất tối ưu (X1 = 6,5%; X2 = 10,1 U g⁻¹; X3 = 27,2 giờ), hiệu suất thu hồi pectin đạt 176 mg.g⁻¹ chất khô (DM). Khi thời gian chiết xuất được tăng lên 48 giờ (thay vì giá trị +α là 27,2 giờ theo thiết kế), hiệu suất thu hồi đạt 221 mg g⁻¹ DM. Phương pháp enzyme được tối ưu hóa giúp thu được pectin từ actisô với hiệu suất cao, hàm lượng GalA (720 mg.g⁻¹ DM) và arabinose (127,6 mg.g⁻¹ DM) cao, cùng với mức độ methyl hóa là 19,5%.
CÁC HỢP CHẤT PHENOLIC TỪ PHỤ PHẨM CỦA ACTISÔ (CYNARA SCOLYMUS L.): TỐI ƯU HÓA PHƯƠNG PHÁP CHIẾT XUẤT HỖ TRỢ VI SÓNG VÀ DÙNG LÀM GIÀU DẦU ĂN
Menana Guemghar và cs.
Food Technology. 2020 June; 44(1): 193-211
Nghiên cứu này đề cập tới việc tối ưu hóa quá trình chiết xuất các hợp chất phenolic từ phế phẩm actisô (Cynara scolymus L.) và phát triển một loại dầu giàu chức năng với tác dụng tăng cường sức khoẻ. Thiết kế Box–Behnken (BBD), một dạng phổ biến của phương pháp bề mặt đáp ứng (RSM), được áp dụng để khảo sát ảnh hưởng của các biến số quy trình lên phương pháp chiết xuất hỗ trợ vi sóng (MAE) nhằm thu hồi các hợp chất phenolic (TPC). Các biến độc lập được nghiên cứu bao gồm nồng độ ethanol (%), công suất vi sóng (W), thời gian chiết vi sóng (phút) và tỷ lệ dung môi/nguyên liệu (mL/g) trong MAE. Phân tích thống kê cho thấy điều kiện tối ưu cho MAE đạt được với dung môi chiết xuất là ethanol 72%, tỷ lệ dung môi/nguyên liệu 81:1 mL/g, thời gian chiết 4 phút và công suất vi sóng 900 W. Khả năng thu hồi TPC tối đa dự đoán theo điều kiện tối ưu là 37,43 ± 1,26 mg GAE/g trọng lượng khô (DW), gần với giá trị thực nghiệm 36,10 ± 0,72 mg GAE/g DW, chứng minh tính phù hợp của mô hình sử dụng và hiệu quả của RSM trong tối ưu hóa điều kiện chiết xuất. Phương pháp MAE cho thấy hiệu suất cao hơn so với phương pháp chiết xuất truyền thống. Dầu ăn được làm giàu với dịch chiết tối ưu có hàm lượng hợp chất phenolic đạt 56,41 ± 2,03 μg/mL, cao hơn so với mẫu dầu đối chứng.
Phạm Hải Long
CHIẾT XUẤT CYNARINE VÀ ACID CHLOROGENIC TỪ LÁ ACTISÔ (CYNARA SCOLYMUS L.) VÀ ĐÁNH GIÁ HOẠT TÍNH CHỐNG OXY HÓA, KHÁNG KHUẨN
Nguyễn Quốc Thắng và cs.
Vietnam Journal of Chemistry. 2022 Oct; 60(5): 571-577
Actisô từ lâu đã được biết đến như một loại dược liệu truyền thống nhờ chứa các hợp chất phenolic. Trong nghiên cứu này, các phương pháp chiết xuất rắn-lỏng, chiết xuất hỗ trợ siêu âm và chiết xuất hỗ trợ enzyme được sử dụng để thu nhận cynarine và acid chlorogenic từ lá actisô khô. Ở điều kiện tối ưu: nồng độ enzyme 5,2 U/mL, pH 4,6 và ủ ở 29°C, hiệu suất thu được cynarine và acid chlorogenic lần lượt là 156,3 ± 2,3 mg/kg và 19,8 ± 1,4 mg/kg nguyên liệu khô, không có sự sai khác đáng kể so với giá trị dự đoán (154,5 mg/kg đối với cynarine, 19,4 mg/kg đối với acid chlorogenic). Hoạt tính chống oxy hóa của dịch chiết từ lá actisô sử dụng phương pháp chiết xuất hỗ trợ enzyme pectinase được đánh giá thông qua thử nghiệm DPPH và FRAP. Giá trị IC50 của dịch chiết actisô thu được là 30,0 mg/L đối với thử nghiệm DPPH và 77,8 mg/L đối với thử nghiệm FRAP. Ngoài ra, dịch chiết actisô còn được nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn, với đường kính vòng ức chế là 12 mm đối với Bacillus cereus khi sử dụng dịch chiết actisô ở nồng độ 50 mg/mL và 8 mm đối với Escherichia coli và Pseudomonas aeruginosa khi sử dụng dịch chiết actisô ở nồng độ 100 mg/mL. Dịch chiết actisô sử dụng phương pháp chiết xuất hỗ trợ enzyme pectinase có hàm lượng cynarine và acid chlorogenic cao, cho thấy tiềm năng ứng dụng trong điều trị các bệnh liên quan đến tổn thương oxy hóa và nhiễm khuẩn.
TIỀM NĂNG TÁI SỬ DỤNG PHẾ THẢI CỦA ACTISÔ (CYNARA SCOLIMUS L.) NHẰM THU HỒI CÁC HỢP CHẤT PHENOLIC VÀ NĂNG LƯỢNG SINH HỌC
Antonio Zuorro và cs.
Journal of Cleaner Production. 2015 June: 1-6
Phế phẩm từ actisô đã được nghiên cứu như một nguồn tiềm năng để thu hồi các hợp chất phenolic và sản xuất năng lượng sinh học. Hàm lượng phenolic tổng số trong phế phẩm từ actisô, biểu thị dưới dạng đương lượng acid gallic (GAE) trên khối lượng khô, đạt 32,2 mg GAE/g. Các polyphenol được chiết xuất bằng phương pháp thân thiện với môi trường, sử dụng dung môi ethanol 50% (v/v) trong nước. Các thí nghiệm được thực hiện theo thiết kế tổng hợp trung tâm và phương pháp bề mặt đáp ứng được áp dụng để đánh giá ảnh hưởng của nhiệt độ (T), thời gian chiết xuất (E) và tỷ lệ lỏng-rắn (R) đến hiệu suất chiết xuất phenolic. Trong điều kiện tối ưu (T¼ 53,3°C, E¼ 110,4 phút và R¼ 3,3 mL/g), hơn 90% các hợp chất phenolic có trong phế phẩm từ actisô đã được thu hồi. Cả ba yếu tố T, E và R đều có ý nghĩa thống kê, với mức độ ảnh hưởng đến hiệu suất chiết xuất theo thứ tự tăng dần: R < T < E. Phế phẩm từ actisô được phát hiện có giá trị nhiệt cao (HHV¼ 19,1 MJ/kg) và hàm lượng tro thấp (A¼ 3,8 wt%). Sau khi chiết xuất phenolic, HHV tăng lên 19,6 MJ/kg và A giảm xuống 1,6 wt%. Nhìn chung, kết quả thu được cho thấy tiềm năng mạnh mẽ trong việc sử dụng phế phẩm từ actisô để thu hồi các hợp chất phenolic có giá trị và sản xuất năng lượng sinh học tái tạo.
Phạm Anh Minh
PHÂN LẬP, ĐẶC TÍNH VÀ XÁC ĐỊNH CẤU TRÚC CÁC HỢP CHẤT TỶ LỆ NHỎ ĐƯỢC CHIẾT XUẤT TỪ LÁ ACTISÔ (CYNARA SCOLYMUS L.)
Jan Fritsche và cs.
European Food Research and Technology. 2002 Aug; 215: 149-157.
Actisô (Cynara scolymus L.) và chiết xuất lá actisô (ALE) từ lâu đã là một phần quan trọng trong chế độ ăn Địa Trung Hải cũng như được sử dụng trong y học dân gian để điều trị các rối loạn tiêu hóa. Mặc dù một số cơ chế sinh học đã được đề xuất, chẳng hạn như tăng tiết mật giúp tăng đào thải cholesterol và/hoặc ức chế hoạt động của enzyme 3-hydroxy-3-methylglutaryl coenzyme A (HMG-CoA) reductase dẫn đến giảm tổng hợp cholesterol, nhưng các nghiên cứu lâm sàng thuyết phục và kết luận rõ ràng về khả năng giảm cholesterol trong máu của actisô hoặc ALE vẫn còn hạn chế. Mục tiêu của nghiên cứu này là phân lập, xác định đặc trưng và đánh giá các hợp chất thứ cấp trong actisô liên quan đến khả năng giảm cholesterol trong máu, vị đắng và khả năng chống oxy hóa. Các kỹ thuật phân lập sắc ký lỏng (Sephadex LH-20) kết hợp với các phương pháp phân tích (HPLC-DAD-MS và HPLC-DAD) đã được sử dụng thành công để tách, định tính và định lượng các hợp chất chiếm tỷ lệ nhỏ trong lá actisô. Trong ALE có bán trên thị trường, các hợp chất sau đã được xác định: 8-deoxy-11-hydroxy-13-chlorogrosheimin, acid cryptochlorogenic, acid chlorogenic, acid neochlorogenic, cynarin, cynaratriol (dự đoán), grosheimin, 8-deoxy-11,13-dihydroxygrosheimin, luteolin-7-O-rutinosid, luteolin-7-O-glucosid và cynaropicrin. Hầu hết các hợp chất này đã được mô tả bằng sắc ký lỏng lần đầu tiên. Nồng độ các hợp chất ALE quan trọng, cụ thể là acid chlorogenic, cynarin và luteolin-7-O-glucosid, lần lượt nằm trong khoảng 0,35–18,34, nd-1,02, 0,04 – 10,65 mg/g ALE. Cynaropicrin, nguyên nhân gây đắng chủ yếu của ALE, có mặt ở nồng độ từ <0,06 đến 22,6 mg/g ALE. Thử nghiệm Rancimat cho thấy một bức tranh không rõ ràng về đặc tính chống oxy hóa (AOX) của ALE hòa tan trong dầu hướng dương: bốn chiết xuất cho thấy tác dụng, trong khi ba ALE có tác dụng chống oxy hóa và một chiết xuất không cho thấy tác dụng nào ở nồng độ từ 500 đến 4000 mg/kg (so với dầu hướng dương tinh luyện). Tuy nhiên, tất cả các hợp chất actisô riêng lẻ – acid chlorogenic, cynarin, luteolin, luteolin-7-O-glucoside – đều cho thấy tác dụng chống oxy hóa đáng chú ý, acid chlorogenic là hợp chất AOX mạnh nhất. Hơn nữa, acid chlorogenic cho thấy tác dụng ức chế HMG-CoA reductase mạnh phụ thuộc tuyến tính vào liều ở nồng độ từ 5 đến 50 mg/ml. Luteolin và luteolin-7-O-glucosid cho thấy tác dụng ức chế thậm chí còn mạnh hơn ở nồng độ 10 mg/ml (hoạt tính HMG-CoA reductase tương đối: lần lượt là 2,4% và 6,5% so với giá trị 26,5% hoạt tính HMG-CoA reductase sau khi xử lý bằng acid chlorogenic). Tất cả các ALE thương mại được nghiên cứu đều cho thấy tác dụng ức chế HMG-CoA reductase trung bình ở nồng độ 10 mg/ml.
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC GIAI ĐOẠN TRỒNG KHÁC NHAU ĐẾN NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG TRONG SẢN XUẤT ACTISO (CYNARA CARDUNCULUS VAR. SCOLYMUS)
Celil Korkmaz và cs.
Harran Tarım ve Gıda Bilimleri Derg. 2024, 28(4):604-615
DOI: 10.29050/harranziraat. 1485735
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá tiềm năng của cây actiso như một loại rau thay thế trong điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng của Konya. Hai giống actiso, Jade F1 (JD) và Bayrampaşa (BP) được trồng trong hai giai đoạn khác nhau (giai đoạn 1: ngày 20 tháng 5, giai đoạn 2: ngày 10 tháng 6) để khảo sát các đặc điểm sinh trưởng, năng suất và chất lượng nụ hoa.
Kết quả cho thấy giống BP trồng ở giai đoạn 2 và giống JD trồng ở giai đoạn 1 có sự phát triển chiều cao cây vượt trội. BP có chiều cao cây lớn hơn JD, đạt giá trị chiều cao cây cao nhất khi nhiệt độ không khí tăng. Bên cạnh đó, cả hai giống đều ra khá nhiều lá, cho thấy khả năng thích nghi tốt với điều kiện trồng khi nhiệt độ tăng lên.
Số nhánh cây mang hoa tối đa đạt 10,65 trong giai đoạn trồng thứ 2. Giống JD trồng ở giai đoạn 1 đạt số lượng nụ hoa cao nhất, với 7850 nụ/ha. Tương tự, giai đoạn đầu cũng cho thấy số lượng nụ hoa trung bình và trọng lượng nụ hoa kèm thân đạt cao nhất ở giống JD, với 7,85 nụ/cây và 1613 kg/ha. Đường kính nụ hoa lớn nhất (9,15 cm) được ghi nhận ở giống JD trong giai đoạn 2, tiếp theo là JD (8,10 cm) và BP (7,40 cm) ở giai đoạn 1. Ở giai đoạn 2, nụ hoa của giống JD có chiều cao cao nhất (9,36 cm) và đường kính đài hoa lớn nhất (9,93 cm).
Cuối cùng, khi so sánh giá trị về mặt kinh tế với cây cà chua, giai đoạn trồng đầu tiên (ngày 20 tháng 5) của giống JD được xác định là phù hợp nhất cho điều kiện sinh thái của Konya.
Phạm Lưu Kiều Mỹ
ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ ỨNG DỤNG Y HỌC CỦA CÂY ACTISO GLOBE (CYNARA SCOLYMUS L.)
Bekheet, S. và cs.
J. biodivers. conserv. bioresour. manag. 5(1), 2019
DOI: https://doi.org/10.3329/jbcbm.v5i1.42184
Cây actiso globe (Cynara scolymus L.) có xuất xứ từ khu vực Địa Trung Hải, được trồng chủ yếu để thu hoạch nụ hoa non. Actiso được dùng làm rau ăn nhờ giá trị dinh dưỡng cao, giàu inulin, chất xơ và khoáng chất. Ngoài ra, actiso được phổ biến như một loại dược liệu dễ trồng, với hàm lượng các hợp chất polyphenolic dồi dào trong lá và nụ hoa. Cây actiso thường được sử dụng để điều trị các bệnh liên quan tới sỏi mật và gan, có thể kể đến như tổn thương gan hay suy giảm chức năng gan. Dược tính của actiso có được dựa trên các thành phần hóa học đặc biệt của nó, bao gồm hàm lượng polyphenol cao như cynarin, cùng với tiền chất sinh tổng hợp của nó là acid chlorogenic.
Actiso có mức độ đa dạng sinh học phong phú, thuận lợi cho quá trình cải thiện di truyền. Tuy nhiên, sự đa dạng di truyền của actiso đang đối mặt với nhiều mối đe dọa, bao gồm cả những yếu tố sinh học lẫn phi sinh học, tạo ra nguy cơ gây suy giảm di truyền do mất mùa và mất giống cây trồng. Vì vậy, bảo tồn sự đa dạng di truyền của actiso là rất cần thiết để phục vụ cho các nghiên cứu và cải thiện giống trong tương lai.
Do hầu hết các giống actiso đều có tính dị hợp tử cao, việc duy trì nguồn gene actiso bằng hạt giống gặp nhiều hạn chế (vì cây con có thể không giữ nguyên các đặc điểm di truyền của cây mẹ do sự tái tổ hợp gene xảy ra trong quá trình sinh sản hữu tính). Trong khi đó, phương pháp bảo tồn ngoài thực địa như canh tác trên đồng ruộng cũng tồn tại nhiều nhược điểm, làm giảm hiệu quả và đe dọa sự an toàn của nguồn gene. Việc ứng dụng các kỹ thuật công nghệ sinh học, chẳng hạn như nuôi cấy mô hay các kỹ thuật sinh học phân tử, có thể cung cấp các phương pháp đáng tin cậy để hỗ trợ khai thác và bảo tồn đa dạng sinh học của actiso. Hơn nữa, kỹ thuật nuôi cấy in vitro có thể được sử dụng để sản xuất có kiểm soát các hợp chất thứ cấp của actiso. Bài viết này tập trung thảo luận về các khía cạnh liên quan đến đa dạng sinh học, bảo tồn, dinh dưỡng và ứng dụng y học của cây actiso.
ẢNH HƯỞNG CỦA VI KHUẨN VÙNG RỄ CÓ KHẢ NĂNG KÍCH THÍCH TĂNG TRƯỞNG THỰC VẬT (PGPR) ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH CANH TÁC ACTISO (CYNARA SCOLYMUS L.) TRONG ĐIỀU KIỆN CHỊU MẶN
E3S Web of Conferences 434, 03006 (2023)
https://doi.org/10.1051/e3sconf/202343403006
Bài báo trình bày kết quả các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm và thực địa liên quan tới việc xử lý cây actiso (Cynara scolymus L.) bằng các chế phẩm có hoạt tính sinh học. Theo kết quả thu được, so với biến thể đối chứng trong các thí nghiệm thực địa, hiệu quả cao nhất đạt được là từ 3,4% đến 4,8% khi sử dụng chế phẩm "Elisitor" ở tỷ lệ pha loãng 1:100 và 1:1000. Kết quả tương tự cũng được ghi nhận với chế phẩm sinh học "Zamin-M", với mức tăng lần lượt là 0,3% ở tỷ lệ pha 1:1000 và 3,0% ở tỷ lệ pha 1:100.
Còn trong điều kiện phòng thí nghiệm, chỉ số thụ phấn của cây được xử lý bằng “Elicitor” đạt mức 95,0%, cao hơn 6,0% so với đối chứng và cao hơn 3,4% so với biến thể chuẩn. Trong khi đó, chỉ số thụ phấn của cây được xử lý bằng chế phẩm “Zamin-M” đạt 93,85%, cao hơn 4,85% so với đối chứng và 2,25% so với biến thể chuẩn.
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÂY ACTISO (CYNARA SCOLYMUS L.) KHI TƯỚI BẰNG NƯỚC TỪ HÓA
Aminallah Bagherifard và cs.
Ethno Pharm Product: EPP 2021; 2 (1): 38-44
https://dorl.net/dor/20.1001.1.23833017.2021.2.1.6.6
Trường điện từ là một trong những yếu tố môi trường có sự ảnh hưởng lớn đến các hiện tượng sinh học ở sinh vật sống, đặc biệt là thực vật. Actiso (Cynara scolymus L.) là một loại dược liệu quý, giúp giảm cholesterol trong máu cũng như hỗ trợ điều trị rối loạn chức năng gan. Nghiên cứu này đã được thực hiện vào năm 2012, nhằm đánh giá hiệu quả của nước từ hóa đối với sự sinh trưởng, trọng lượng tươi và khô của lá và rễ, hiệu suất sử dụng nước và một số hợp chất hóa học của cây actiso.
Các thí nghiệm được thiết kế theo phương pháp hoàn toàn ngẫu nhiên với bốn mức cường độ trường điện từ (0, 3000, 6000 và 10000 Gauss), mỗi mức được lặp lại bốn lần. Phân tích phương sai cho thấy rằng sự sinh trưởng của cây, trọng lượng thân, trọng lượng rễ, hiệu suất sử dụng nước và các hợp chất hóa học bị ảnh hưởng đáng kể bởi việc tưới nước đã qua xử lý từ trường. Kết quả cho thấy hoạt tính phenol và khả năng chống oxy hóa cao nhất của chiết xuất cây actiso lần lượt đạt 3,99 mg/g và 66,74% ở các mẫu được tưới bằng nước chịu tác động của trường điện từ 6000 Gauss. Ngược lại, hàm lượng axit chlorogenic cao nhất (0,20 mg/g) lại được quan sát ở các mẫu được tưới bằng nước thông thường.
Dựa trên các kết quả thu được, có thể kết luận rằng mức cường độ từ trường 6000 Gauss mang lại hiệu quả tốt hơn so với các mức khác trong việc nâng cao chất lượng nước tưới và cải thiện chất lượng của cây actiso.
Đinh Ngọc Bảo, Tô Thị Ngân, Nguyễn Đức Mạnh
ĐẶC ĐIỂM HÓA THỰC VẬT VÀ SINH HỌC CỦA HAI GIỐNG CYNARA SCOLYMUS L.: TỔNG QUAN VỀ TIỀM NĂNG CANH TÁC QUY MÔ LỚN VÀ GIÁ TRỊ CỦA CHÚNG BỞI CÁC THÀNH PHẦN CÓ CHỨC NĂNG SINH HỌC
Luca SV và cs.
Industrial Crops and Products, 2022, 178, 114623
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP TRỒNG CÂY ATISÔ GAI (CYNARA SCOLYMUS L.) TRONG ĐIỀU KIỆN VÙNG TASHKENT
Turakulov A.A và cs.
European Journal of Agricultural and Rural Education. 2022; 3(12): 1-3
Ở Uzbekistan, atisô gai (Cynara scolymus L) là một loại rau ăn và cây thuốc lâu năm còn chưa được khai thác rộng rãi. Trong điều kiện đất serosemic của vùng Tashkent, một nghiên cứu đã được thực hiện nhằm đánh giá đặc điểm hình thái - sinh học của các giống atisô gai có giá trị kinh tế, phân tích các chỉ tiêu sinh hóa có trong quả atisô gai và xác định dược tính, xác định các phương án trồng tối ưu (90 x 50 cm cho giống cây trồng sớm), 100 x 100 cm đối với giống cây trồng muộn), bón phân hữu cơ và khoáng chất với tỷ lệ 20 tấn/ha phân hữu cơ (nền) + N150P120K60 kg/ha, điều này đảm bảo năng suất của giống Maykopsky trong khoảng từ 41 - 61 tấn/ha và giống Zamorsky đạt năng suất 56,8 tấn/ha, đồng thời phát triển một quy trình kỹ thuật canh tác chi tiết cho cây atisô gai.
Bùi Thị Xuân
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC lượng PHÂN ĐẠM KHÁC NHAU ĐẾN MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM HÓA THỰC VẬT CỦA LÁ ATISÔ (CYNARA SCOLYMUS L.)
Marziyeh Allahdadi và cs.
Journal of Medicinal Plants Studies. 2018; 6(1): 109-115
Đạm có vai trò chính trong sinh trưởng và phát triển của tất cả các loại cây trồng kể cả atisô. Để nghiên cứu ảnh hưởng của các mức độ phân bón đạm khác nhau đến các đặc điểm hình thái và sinh hóa thực vật của cây atisô, một thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối hoàn toàn ngẫu nhiên với ba lần lặp lại tại Isfahan, Iran, trong năm 2014. Các công thức thí nghiệm gồm bốn mức độ phân bón đạm (0, 100, 150 và 200 kg N/ha) từ nguồn phân urê. Kết quả cho thấy việc sử dụng phân bón đạm với lượng cao hơn cải thiện sự phát triển của atisô nhưng làm giảm phenol tổng số, flavonoid tổng số và hoạt tính chống oxy hóa. Chiều dài lá đạt cao nhất (102 cm), số lá trên cây (30), trọng lượng tươi của cây (3494,33 g) và trọng lượng khô (804,67 g) được ghi nhận ở mức bón 200 kg N/ha. Các đặc điểm hóa thực vật của cây atisô giảm đi do sử dụng phân bón hóa học và lượng phenol tổng số tối đa (99,36 mg GAE g-1 DW), flavonoid tổng số (1,30 mg QE/g DW), hoạt động quét gốc tự do DPPH (90,96%) và khả năng khử (2,29) đã được ghi nhận ở công thức thí nghiệm đối chứng. Ngoài ra, chúng tôi đã tìm thấy mối tương quan thuận giữa phenol tổng số, hàm lượng flavonoid tổng số và hoạt tính chống oxy hóa trong cây atisô. Dựa trên kết quả, để tránh những tác động tiêu cực của đạm đến chất lượng của lá atisô, mức đạm 100 kg N/ha được khuyến cáo sử dụng trong canh tác atiso để sử dụng làm thuốc.
BIẾN ĐỔI LÝ HÓA GÂY RA SỰ NẢY MẦM VÀ PHÁT TRIỂN BAN ĐẦU CỦA HẠT ATISÔ (CYNARA SCOLYMUS L.) BẰNG CÔNG NGHỆ PLASMA NĂNG LƯỢNG THẤP
Seyed Iman Hosseini và cs.
Physics of Plasmas. 2018; 25, 013525
Trong nghiên cứu này, plasma nitơ tần số vô tuyến không nhiệt áp suất thấp ở công suất rất thấp lần đầu tiên đã được sử dụng để xử lý hạt atisô trên cực âm được cấp điện. Ảnh hưởng của thời gian xử lý đến các tính trạng kiểu hình, tỷ lệ nảy mầm, sự phát triển của cây con và hoạt động enzyme của hạt đã được nghiên cứu. Kết quả cho thấy xử lý bằng plasma đã cải thiện đáng kể tỷ lệ nảy mầm và sự phát triển của cây con. Chiều dài rễ tăng 28,5% và 50% và khối lượng khô của rễ tăng 13% và 53% trong 10 và 15 phút xử lý. Xu hướng tương tự cũng được tìm thấy đối với các tham số phát triển của chồi mặc dù hiệu quả kích thích mạnh hơn đã được ghi nhận ở rễ. Việc xử lý plasma nitơ làm cho bề mặt hạt ưa nước, giúp cải thiện 36,9% khả năng hấp thụ nước của hạt sau 15 phút xử lý. Nghiên cứu này cho thấy hoạt động của enzyme peroxidase và catalase tăng nhẹ sau khi xử lý bằng plasma.
ẢNH HƯỞNG CỦA DINH DƯỠNG CÂY MẸ ĐẾN MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NẢY MẦM CỦA HẠT VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÂY ATISÔ (CYNARA SCOLYMUS L.)
M. Allahdadi
Iranian Journal of Seed Science and ,
2020, 8(2):59-72
Để đánh giá tầm quan trọng dinh dưỡng phù hợp của cây mẹ trong việc sản xuất hạt giống có sức sống cao, một thí nghiệm hai nhân tố đã được bố trí theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn với 3 lần lặp lại nhằm nghiên cứu các đặc điểm nảy mầm của hạt giống atiso thu hoạch từ các cây mẹ được xử lý bằng phân bón hóa học và phân bón sinh học, vào năm 2016. Các cây mẹ đã được bón phân hóa học ở ba mức độ (100% phân hóa học, 50% phân hóa học và đối chứng) và phân bón sinh học ở bốn mức độ (đối chứng, bổ sung hệ vi sinh với Nitroxin, bổ sung hệ vi sinh với Barvar 2 và bổ sung hệ vi sinh với cả hai loại phân bón sinh học) trong năm đầu tiên và phân hóa học (100 kg Nitơ trên héc-ta cho các mức phân hóa học) trong năm thứ hai. Trong nghiên cứu này, hạt giống được thu hoạch để đo các đặc điểm nảy mầm trong năm thứ hai của thí nghiệm. Kết quả cho thấy việc sử dụng phân hóa học và phân bón sinh học trên cây mẹ có ảnh hưởng tích cực và đáng kể đến khả năng nảy mầm và sự phát triển của cây con atiso. Các kết quả cho thấy rằng, trong các mức độ phân hóa học khác nhau, mức phân hóa học cao nhất mang lại giúp các chỉ tiêu như trọng lượng 1000 hạt, tỷ lệ nảy mầm, tốc độ nảy mầm, chỉ số sinh trưởng, trọng lượng khô chồi mầm, trọng lượng khô rễ mầm, trọng lượng khô cây con, chiều dài rễ mầm, chiều dài chồi mầm, chiều dài cây con đạt được ở mức độ cao của phân bón hóa học. Các chỉ tiêu trên đều đạt giá trị cao nhất với cả hai loại phân bón vi sinh. Mức đối chứng có thời gian nảy mầm trung bình dài nhất. Có thể kết luận rằng, việc sử dụng phân bón hóa học kết hợp với phân bón vi sinh có thể cải thiện hầu hết các chỉ số nảy mầm ở cây atisô thông qua việc tăng cường khả năng hấp thụ các dưỡng chất như nitơ và photpho.
TỔNG QUAN VỀ TÍNH ĐA NĂNG CỦA CÁC BỘ PHẬN CỦA CÂY ACTISO (CYNARA SCOLYMUS L.), CŨNG NHƯ CÁC THỰC PHẨM CHỨC NĂNG VÀ SẢN PHẨM PHỤ CỦA NÓ
Beata Olas
Nutrients 2024, 16(5), 599
Cynara scolymus L., hay actiso, được trồng làm thực phẩm, chủ yếu ở Địa Trung Hải, Quần đảo Canary và Ai Cập, cũng như ở Châu Á và Nam Mỹ. Loài cây này có nhiều lợi ích sức khỏe khác nhau và được sử dụng trong các thực phẩm chức năng có nguồn gốc thực vật và các loại trà thảo dược. Các bộ phận ăn được của nó, bao gồm hoa và lá, đã cho thấy nhiều hoạt động sinh học khác nhau, bao gồm khả năng chống ung thư, bảo vệ gan và kháng khuẩn. Lá chủ yếu được sử dụng trong các loại trà và chiết xuất vì các đặc tính tăng cường sức khỏe của chúng, mặc dù tất cả các bộ phận ăn được của chúng cũng có thể được tiêu thụ dưới dạng thực phẩm tươi, đông lạnh hoặc đóng hộp. Tuy nhiên, hoạt động tăng cường sức khỏe chính của actiso có liên quan đến tiềm năng chống oxy hóa, có liên quan đến thành phần hóa học của nó, đặc biệt là các hợp chất phenolic (chiếm 96 mg axit gallic tương đương trên 100 g nguyên liệu thực vật thô) và chất xơ trong chế độ ăn uống. Các hợp chất phenolic chính trong đầu và lá là các dẫn xuất của axit caffeic, trong khi các flavonoid luteolin và apigenin (cả hai đều có dạng glucoside và rutinoside) cũng đã được xác định. Ngoài ra, actiso đã qua xử lý nhiệt (luộc, hấp hoặc chiên), chiết xuất của chúng và chất thải từ quá trình chế biến actiso cũng có hoạt tính chống oxy hóa. Bài báo này đánh giá các tài liệu hiện tại liên quan đến các đặc tính sinh học của các bộ phận khác nhau của C. scolymus, các sản phẩm phụ và chất bổ sung chế độ ăn uống của nó, cũng như hàm lượng hóa học và độc tính của chúng.
Nguyễn Đức Mạnh
NGHIÊN CỨU VỀ PHẢN ỨNG SINH TRƯỞNG VÀ KHÁNG TRESS MẶN Ở CÂY THUỐC CYNARA SCOLYMUS L.
Afsharnia và cs.
Environmental Stresses in Crop Sciences, 2024
Mở đầu
Độ mặn của nước và đất là một trong những yếu tố môi trường quan trọng nhất hạn chế sự sinh trưởng và phát triển của thực vật trên toàn thế giới, đặc biệt là ở các vùng khô hạn và bán khô hạn. Một mặt, dân số tăng và mặt khác, tài nguyên nước ngọt và đất giảm đã làm tăng gấp đôi nhu cầu nghiên cứu liên quan đến việc xác định các loài thực vật chịu mặn và các chiến lược để sử dụng hiệu quả đất và nguồn nước mặn. Do đó, nghiên cứu này được tiến hành với mục đích tìm kiếm và xác định khả năng chịu mặn của các loài cây actisô và tốc độ sinh trưởng của các loài trong các điều kiện độ mặn của nước tưới khác nhau và đánh giá hiệu suất của các thông số sinh trưởng sinh dưỡng và sinh lý trong điều kiện đồng ruộng để sử dụng loài cây này ở những khu vực có độ mặn nước hạn chế.
Vật liệu và phương pháp
Để đánh giá khả năng chịu mặn của loài cây thuốc actiso và xác định khả năng chịu mặn của loài này, một thí nghiệm đã được tiến hành với sáu mức độ mặn bao gồm (đối chứng), 9, 12 và 15 dS m-1 theo thiết kế hoàn toàn ngẫu nhiên và ba lần lặp lại trong điều kiện trồng trong chậu. Sau bốn tuần trong điều kiện mặn, dữ liệu về sắc tố quang hợp, lá khô, hàm lượng nước trong lá, trọng lượng khô của lá, hàm lượng tro, SLA đã được thu thập. Sự khác biệt giữa các công thức thí nghiệm đã được ghi nhận ở mức 5 % về mặt thống kê qua thử nghiệm Duncan đối với phân tích phương sai và số trung bình
Kết quả và thảo luận
Kết quả cho thấy xử lý độ mặn có tác động đáng kể đến các đặc điểm của tổng diệp lục, tỷ lệ khô và rụng lá, tỷ lệ tro lá, trọng lượng riêng của lá và hàm lượng ẩm của lá ở mức năm phần trăm và cây atiso có thể chịu được độ mặn lên đến 9 dS m-1 nhưng nhạy cảm ở mức độ mặn cao hơn. Nói cách khác, độ mặn 12 dS m-1 đã làm giảm tỷ lệ nảy mầm của các loài actiso hơn 50% và làm tăng đáng kể tỷ lệ tro, cũng như tỷ lệ lá khô và rụng lên 50%, và làm giảm đáng kể hàm lượng nước trong lá, trọng lượng rễ khô trong khi nó làm tăng đáng kể rò rỉ chất điện phân có thể chỉ ra sự giảm đáng kể trong quá trình sinh trưởng và hiệu suất của loài này ở mức độ mặn này. Theo kết quả, trên mỗi đơn vị độ mặn tăng, trọng lượng mất đi của lá Actiso được ghi nhận là 11%. Nhìn chung, các loài thực vật actiso, về khả năng chống chịu với độ mặn, có khả năng chịu đựng tương đối tốt và có vẻ như loài thực vật này có thể được sử dụng để trồng trọt và sản xuất bằng cách sử dụng nguồn nước mặn lên đến 9 dS m-1 trong điều kiện của khu vực nghiên cứu.
Kết luận
Kết quả cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về năng suất và sinh trưởng của actiso khi tăng độ mặn của nước lên đến 9 dS m-1 tại khu vực nghiên cứu. Trong điều kiện trang trại và chậu vại, các phương pháp xử lý thử nghiệm cho thấy lượng lá rụng, hàm lượng tro và nước, trọng lượng khô của lá tăng đáng kể khi tăng độ mặn của nước lên 12 dS m-1. Nhìn chung, atiso là một loại cây thuốc quan trọng, là loài có khả năng chịu mặn từ trung bình đến mặn và có thể là loài thích hợp để trồng trọt và sản xuất cây trồng ở khu vực có nước mặn lên đến 9 dS m-1 trong điều kiện của khu vực nghiên cứu. Theo kết quả, độ mặn của nước lên đến 12 dS m-1 làm giảm đáng kể sự phát triển của loài này lên đến 50% nhưng cần nhiều nghiên cứu hơn về tác động của độ mặn đối với giai đoạn ra hoa và gieo hạt. Chúng tôi khuyến nghị cần có nhiều nghiên cứu hơn ở các điều kiện khí hậu khác nhau để làm rõ tác động của những điều kiện này đối với khả năng chống chịu mặn của các loài thực vật.
NUÔI CẤY MÔ SẸO IN VITRO CỦA ACTISO (CYNARA CARDUNCULUS SUBSP. SCOLYMUS): HỆ THỐNG SINH HỌC SẢN XUẤT DẪN XUẤT CAFFEOYLQUINIC ACID, SESQUITERPENE LACTONE, FLAVONOID
Ghada M. Abbas và cs.
Plant Biosystems-An International Journal Dealing with all Aspects of Plant Biology (2022), 156(4), 865-874
Nuôi cấy mô sẹo in vitro của Cynara cardunculus subsp. scolymus từ lá bắc và lá, sử dụng tổ hợp phytohormone khác nhau. Công thức phù hợp nhất là axit 1-naphthaleneacetic: 6-benzylaminopurine (NAA-BAP), với tỉ lệ 3:1 mg/L. Thay đổi các tổ hợp phytohormone khác nhau đã làm biến đổi cấu hình các chất chuyển hóa thứ cấp của C. cardunculus subsp. scolymus, được phát hiện bằng Sắc ký lỏng hiệu năng cao. Rutin được ghi nhận ở mức 1,77 mg/g DW trong mô sẹo lá (không phát hiện thấy trong lá). Sau khi bổ sung 100 µM methyl jasmonate (MeJA) làm chất kích thích, 1,20 mg/g DW của cynarin được ghi nhận trong mô sẹo có nguồn gốc từ lá bắc và 1,18 mg/g DW trong mô sẹo có nguồn gốc từ lá (không phát hiện thấy ở lá và lá bắc). Mô sẹo lá được nuôi cấy với NAA-BAP (3:1 mg/L) cho thấy mức rutin, cynarin, cynaropicrin và pinoresinol cao hơn (lần lượt là 1,43, 1,2, 1,14 và 1,48 mg/g DW) so với actiso được trồng (lần lượt là 0,0, 0,0, 0,40 và 0,0 mg/g DW). Hơn nữa, việc tạo ra mô sẹo này bằng cách bổ sung 50 µM MeJA đã làm tăng mức luteolin, quercetin, cynarin và axit chlorogenic so với mô sẹo ban đầu. Hàm lượng Phenolic tổng số (TPC) cao hơn được ghi nhận trong mô sẹo có nguồn gốc từ lá và lá bắc (lần lượt là 106 ± 2,69 và 55,19 ± 0,34 mg GAE/g DW) so với lá và lá bắc của cây trồng (lần lượt là 69,04 ± 0,05 và 19,42 ± 0,34 mg GAE/g DW).
SỰ TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN VÀ NĂNG SUẤT CỦA MỘT SỐ GIỐNG ACTISO (CYNARA SCOLYMUS L.) TRONG ĐIỀU KIỆN CỦA VÙNG TASHKENT
Abdusalomovich Turakulov Alimardon
An International Multidisciplinary Research Journal, 2021, 11, (3): 135-137
Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu trồng actisô gai (Cynara Scolymus L.) trong điều kiện của vùng Tashkent. Các đặc điểm hình thái sinh học và giá trị kinh tế phụ thuộc phần lớn vào giống và phương pháp gieo hạt. Trong các nghiên cứu về điều kiện của vùng Tashkent, thời gian sinh trưởng giảm, chiều cao cây và số lượng thân tăng, trọng lượng trung bình và số lượng cụm hoa và năng suất tăng trong năm thứ hai của vòng đời cây. Kết quả cho thấy cây actisô gai trồng trong điều kiện của vùng Tashkent có tiền năng năng suất cao. Năng suất của giống actisô Overseas trong năm thứ hai đạt 38,0 tấn/ha, ở giống Maikop 41 là 41,0 tấn/ha.
CHỌN GIỐNG ACTISO GLOBE (CYNARA CARDUNCULUS VAR. SCOLYMUS L.)
Fernando López-Anido và cs.
Advances in Plant Breeding Strategies: Vegetable Crops. Springer (2021), 303-330
Cây actiso globe (Cynara cardunculus var. scolymus L.; họ Asteraceae) là loài lưỡng bội (2n = 2× = 34), sống lâu năm, chủ yếu là loài thụ phấn chéo có nguồn gốc từ lưu vực Địa Trung Hải. Cây là thành phần quan trọng của nền kinh tế nông nghiệp ở miền nam châu Âu và được trồng để lấy cụm hoa non lớn. Actiso được công nhận là có đặc tính dược phẩm bổ sung cho sức khỏe con người. Sản xuất thương mại của nó chủ yếu dựa trên các dòng vô tính sinh dưỡng lâu năm. Gần đây, việc trồng trọt đã chuyển sang nhân giống bằng hạt của các giống lai. Italy có sự đa dạng sinh học phong phú nhất về cây atisô được trồng, dẫn đến việc nuôi cấy các giống và giống bản địa thích nghi với các điều kiện khí hậu và thị trường cụ thể của địa phương. Các nhóm giống cây trồng bao gồm các loại sớm và muộn, nhưng cũng có các loại có gai, tím, Romanesco và Catanese. Theo truyền thống, quá trình chọn lọc đã giữ lại những loài phù hợp, loại bỏ các loài không phù hợp. Do bản chất dị hợp tử của nó, các biến dị lớn được ghi nhận sau khi lai hoặc tự thụ phấn, đã thúc đẩy việc lựa chọn các giống mới. Các giống lai được nhân giống bằng hạt có thể thực hiện được khi sử dụng tính bất thụ gen đực. Trong 20 năm qua, các công nghệ mới đã được áp dụng để mở rộng kiến thức về cơ sở phân tử vốn có, từ bản đồ liên kết di truyền đầu tiên, việc xác định QTL cho năng suất và các đặc điểm liên quan, cho đến trình tự toàn bộ bộ gen gần đây.
NGHIÊN CỨU SO SÁNH PHẢN ỨNG NHÂN GIỐNG IN VITRO CỦA BẢY GIỐNG ATISÔ GLOBE (CYNARA CARDUNCULUS VAR. SCOLYMUS (L.) FIORI): GIỮA GIỐNG THỤ PHẤN TỰ DO SO VỚI GIỐNG LAI F1
Ozsan T và cs.
Notulae Botanicae Horti Agrobotanici Cluj-Napoca, 2020, 48(3):1210-1220
Atisô blobe [Cynara cardunculus var. scolymus (L.) Fiori] đang phát triển đã đạt được tầm quan trọng thương mại trong những năm gần đây do được tiêu thụ làm thực phẩm. Loài cây này đã bắt đầu thu hút sự chú ý trong ngành dược phẩm. Do tầm quan trọng đã nêu của atisô, thị trường cần một lượng lớn giống ban đầu không có mầm bệnh, khỏe mạnh để sản xuất. Nguồn giống tốt sẽ tối ưu hóa năng suất và giảm thiểu chi phí. Các giống lai có chiều cao và độ chín đồng đều, có thể được thu hoạch đồng thời; mặt khác, một giống thụ phấn tự do sẽ có tiềm năng lớn có thể được sản xuất tại địa phương một cách đơn giản với chi phí thấp hơn. Nhân giống in vitro đạt được các tiêu chí này vì nó là phương pháp nhân giống quy mô lớn, nhanh chóng, đáng tin cậy hơn so với phương pháp nhân giống truyền thống bằng giâm hom. Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá, so sánh hiệu quả vi nhân giống của hai giống địa phương thụ phấn tự do (OP) (‘Bayrampaşa’, ‘Sakız’) và năm giống lai F1 (‘Olympus’, ‘Madrigal’, ‘Sambo’, ‘Green Globe’, ‘Imparator’), dựa trên tổng số lần cấy chuyển của thí nghiệm. Thí nghiệm sử dụng các công thức với các nồng độ khác nhau của các chất điều hòa sinh trưởng thực vật nhằm đánh giá hiệu quả vi nhân giống và khả năng ra rễ in vitro. Môi trường 3/4 MS cơ bản bổ sung 0,05 mg L-1 BA + 0,005 mg L-1 IBA được xác định là công thức tốt nhất cho vi nhân giống, trong khi 10,0 mg L-1 IAA + 1,0 g L-1 than hoạt tính thêm vào 1/2 môi trường MS cơ bản có tác dụng tích cực đến khả năng ra rễ in vitro. Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả vi nhân giống biến động theo giống và số lần cấy chuyển ở cả nhóm giống thụ phấn tự do và giống lai. Nghiên cứu này cho thấy nhân giống in vitro atiso globe có thể áp dụng sản xuất đại trà đối với cả giống lai hay thụ phấn tự do. Các giống thụ phấn tự do có giá thành rẻ so với các giống lai F1 nên chúng cũng được xem xét để khuyến cáo sử dụng cho nhân giống đại trà in vitro.
Trần Ngọc Ánh
II. Cây Xuyên tâm liên (Andrographis paniculata Nees.)
SỬ DỤNG MÔ HÌNH THIẾT KẾ THỰC NGHIỆM TRONG NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN VÀ TỐI ƯU HÓA HỆ THỐNG PHÂN PHỐI THUỐC TỰ VI NHŨ HÓA CHỨA CAO XUYÊN TÂM LIÊN (ANDROGRAPHIS PANICULATA)
Chaiyakarn Pornpitchanarong và cs.
Pharmaceutics. 2024 Dec;16(2):166
Nghiên cứu này nhằm mục đích phát triển và tối ưu hóa hệ thống phân phối thuốc tự vi nhũ hóa (SMEDDS) chứa cao xuyên tâm liên (Andrographis paniculata, AGPE) bằng phương pháp thiết kế thực nghiệm và đồng thời đánh giá đặc tính của SMEDDS bào chế được. Độ tan của andrographolid (AGP), hoạt chất chính trong AGPE, đã được nghiên cứu trong các dung môi khác nhau. Xây dựng giản đồ pha để xác định khoảng nồng độ tối ưu cho các thành phần bào chế vi nhũ tương (ME). Công thức được tối ưu hóa bằng thiết kế hỗn hợp I-optimal, trong đó đánh giá tính ổn định vật lý, kích thước giọt, chỉ số đa phân tán và điện thế zeta. Công thức tối ưu SMEDDS chứa AGPE sau đó được đóng gói vào viên nang mềm. Tiến hành các nghiên cứu thử hòa tan và thử nghiệm ex vivo tính thấm qua màng. Kết quả cho thấy acid oleic, tween 80 và PEG 400 có khả năng hòa tan AGP cao. Tỷ lệ chất diện hoạt với đồng dung môi là 3:1. Công thức SMEDDS tối ưu gồm 68,998% Tween 80; 13,257% acid oleic và 17,745% PEG 400. SMEDDS cho thấy đáp ứng các chỉ tiêu về hàm lượng AGP, độ đồng đều đơn vị phân liều và độ ổn định tuân thủ các yêu cầu kỹ thuật mong muốn. Hơn nữa, thử nghiệm độ hòa tan và khả năng thấm qua màng ex vivo của AGPE được tải SMEDDS đã cho thấy sự cải thiện đáng kể so với cao xuyên tâm liên (p < 0.05). Kết luận, nghiên cứu này đã xây dựng công thức SMEDDS chứa AGPE tối ưu với thành phần và hàm lượng AGP tối đa, trong đó các vi nhủ tương được tạo thành ổn định với hiệu năng phân phối dược chất được nâng cao.
Hoàng Thị Diệu Hằng, Đàm Thị Thanh Nhàn
NIOSOME CHỨA XUYÊN TÂM LIÊN (ANDROGRAPHIS PANICULATA) ỨNG DỤNG TRONG LÀM LÀNH VẾT THƯƠNG: ĐẶC TÍNH VÀ PHÂN TÍCH IN VIVO
Roslina Jamaludin và cs.
Journal of Drug Delivery Science and Technology. 2021 Jun; 63:102427
Xuyên tâm liên (Andrographis paniculata) được sử dụng rộng rãi như một phương pháp điều trị tại chỗ nhờ các tác dụng về mặt y dược, như chống viêm, kháng khuẩn và tổng hợp collagen, rất cần thiết cho quá trình chữa lành vết thương. Các túi chất nhỏ hoạt động bề mặt không ion hóa hay niosome có thể làm tăng sinh khả dụng của dược chất ít tan trong nước qua màng sinh học. Do đó, cao xuyên tâm liên đã được đưa vào niosome, hoạt động như một chất mang có kích thước nano. Phương pháp chiết Soxhlet được sử dụng để chiết lấy cao xuyên tâm liên, sử dụng nước hoặc ethanol làm dung môi. Cả hai cao đều được tiến hành phân tích bằng sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC), phân tích hoạt tính chống oxy hóa và phân tích tế bào nuôi cấy để xác định nồng độ tốt nhất cho quá trình đóng viên niosome. Niosome được bào chế bằng cách phân tán niosome có nguồn gốc từ proniosome và được đồng thể để giảm kích thước. Niosome sau đó tạo gel bằng carbopol và tác dụng điều trị vết thương in vivo được tiến hành, thông qua đánh giá đặc điểm đại thể và mô học của chuột cống trắng. Cao xuyên tâm liên chiết bằng ethanol cho thấy hàm lượng andrographolid cao hơn (52 ppm) và hoạt tính chống oxy hóa ở mức 2,5 mg/mL. Đánh giá về hiệu suất nạp (EE) cho thấy công thức 1 (0,6 mmol Span60, 0,4 mmol Cholesterol, 0,1 mmol Labrasol) có EE cao nhất đối với cao chiết nước và ethanol lần lượt là 97,75% ± 1,28 và 97,21% ± 1,89. Nồng độ tối ưu của cao ethanol xuyên tâm liên được nạp vào gel niosome là 100 ppm do có khả năng kích thích sự tăng sinh và di chuyển của các tế bào nguyên bào sợi da người. Vết thương được điều trị bằng gel niosome chứa cao ethanol xuyên tâm liên có sự phục hồi là 100%. Các sợi collagen quan trọng và nang lông hình thành đã được quan sát thấy vào ngày thứ 14. Nghiên cứu hiện tại chứng minh tác dụng có lợi của gel niosome chứa cao xuyên tâm liên có hiệu quả hỗ trợ quá trình điều trị vết thương và bảo vệ mô khỏi stress oxy hóa.
Hoàng Thị Diệu Hằng
BÀO CHẾ VÀ ĐÁNH GIÁ GEL BÔI THẢO DƯỢC CHỨA CAO LÁ XUYÊN TÂM LIÊN (ANDROGRAPHIS PANICULATA)
Samuel Aney J và cs.
Journal of Drug Delivery & Therapeutic. 2020 Jan; 10(1):48-51
Mục tiêu: Nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu bào chế và đánh giá gel chứa cao lá xuyên tâm liên (Andrographis paniculata).
Phương pháp và kết quả: Công thức được xây dựng bằng cách sử dụng cao cồn của lá xuyên tâm liên. Gel được chuẩn bị bằng cách sử dụng carbapol 934, trimethanolamine, propylen glycol, methyl paraben, propyl paraben, nước vừa đủ. Gel được đánh giá hình thức chung, độ pH, khả năng hoà tan, độ nhớt, khả năng đùn ép, thử nghiệm biến tính albumin và độ ổn định.
Kết luận: Gel carbopol chứa cao lá xuyên tâm liên đã được bào chế thành công.
Lương Thị Lan
HIỆU QUẢ CHỐNG GIUN CHỈ CỦA HẠT NANO BẠC “XANH” TỔNG HỢP BẰNG XUYÊN TÂM LIÊN
(ANDROGRAPHIS PANICULATA)
Smita Yadav và cs.
Journal of Drug Delivery Science and Technology. 2020 Apr; 56(A):101557
Các loại thuốc chống giun chỉ hiện nay có hiệu quả chủ yếu chống lại giun chỉ. Thuốc chống giun chỉ có những nhược điểm như độc tính và tình trạng kháng thuốc do sử dụng liện tục. Do đó, cần có thuốc thay thế để kiểm soát bệnh. Hiện nay, các hạt nano được sử dụng để phát triển liệu pháp kháng ký sinh trùng vì các đặc tính đặc biệt của chúng như kích thước nhỏ nhất, sinh khả dụng, khả năng tương thích sinh học và khả năng thâm nhập vào tế bào. Trong nghiên cứu này, các hạt nano xanh đã được tổng hợp sinh học bằng cách sử dụng cao chiết lá xuyên tâm liên để đánh giá hiệu quả chống giun chỉ. Các hạt nano sinh tổng hợp được xác định đặc điểm bằng phương pháp quang phổ UV-Vis, FTIR, XRD, SEM, EDAX, TEM, HRTEM, AFM với kích thước đồng nhất trung bình là 11 nm. Hiệu quả chống giun chỉ của các hạt nano xanh dựa trên xét nghiệm khả năng di chuyển và sống sót của ký sinh trùng giun chỉ trưởng thành. Các hạt nano xanh (NPs) này được phát hiện có hoạt tính chống giun chỉ với LC50 là 11,6 μg/ml đối với ký sinh trùng giun chỉ cái trưởng thành. Các hạt nano xanh gây ra stress oxy hoá, bằng chứng là sản xuất ROS tăng cao và mức GST, GR, TRxR và GSH ký sinh giảm trong ký sinh trùng. Sự hoạt hóa ced-3 gene, là một protein chính có trong giun chỉ tương đồng với caspase 3 người; việc làm giảm biểu hiện ced-3 gene và giảm hoạt tính của cytochrome c oxidase được cho là các cơ chế cảm ứng quá trình apoptosis qua trung gian ty thể trong tế bào giun chỉ. Các hạt nano xanh này có hiệu quả hơn cao chiết dược liệu. Đây là báo cáo đầu tiên trong đó các hạt nano xanh được tổng hợp từ xuyên tâm liên cho thấy hiệu quả chống giun chỉ đối với ký sinh trùng giun chỉ trưởng thành.
THIẾT KẾ, XÂY DỰNG CÔNG THỨC VÀ ĐÁNH GIÁ OXYMEL CÓ CHỨA CAO CHIẾT XUYÊN TÂM LIÊN (ANDROGRAPHIS PANICULATA).
Prasad Suhas Kshirsagar và cs.
International Journal of Pharmacetical Investigation. 2020 Dec; 10(4): 456-458
Giới thiệu: Xuyên tâm liên (Andrographis paniculata) là cây thuốc thuộc họ Ô rô, có vị đắng, được dùng phổ biến trong điều trị một số bệnh về đường tiêu hóa. Để che giấu vị đắng, xuyên tâm liên có thể được bào chế dưới dạng thuốc uống kết hợp với mật ong như oxymel. Mật ong, dung dịch bão hòa của nhiều loại đường khác nhau, theo hệ thống y học Ayurvedic, có thể được sử dụng cùng với thuốc.
Mục đích: Nghiên cứu này nhằm mục đích chiết xuất bột xuyên tâm liên trong nước; xây dựng công thức oxymel bằng cách thêm vào mật ong và đánh giá các đặc tính khác nhau.
Phương pháp: Oxymel được bào chế theo quy trình được đề cập trong Dược điển Hoa Kỳ đối với squill oxymel ; và đánh giá các chỉ tiêu bào chế áp dụng cho sirô uống.
Kết quả: Công thức oxymel có màu nâu sẫm, mùi dễ chịu và vị ngọt. Chế phẩm có thể rót được với độ nhớt 27,14 CP ở 45,02 Torque đo ở 100 vòng/phút và tỉ trọng là 1,25 gm/ml. Việc mở nắp hộp đựng cũng dễ dàng và không quan sát thấy mật ong kết tinh. Hàm lượng andrographolid trong chế phẩm là 411,0 µg/ml.
Kết luận: Vị đắng của xuyên tâm liên có các tác dụng dược lý đáng kể ở người nếu dùng bằng đường uống. Để che vị đắng và tăng khả năng hấp thụ, xuyên tâm liên có thể được điều chế thành công dưới dạng oxymel dạng uống kết hợp với mật ong.
Lương Thị Lan, Vũ Nguyễn Minh Hoa
TỐI ƯU HÓA CÔNG THỨC GEL SỬ DỤNG CARBOPOL 940 VÀ NATRI ALGINAT CÓ CHỨA CAO XUYÊN TÂM LIÊN (ANDROGRAPHIS PANICULATA) ĐỂ LÀM LÀNH VẾT BỎNG
Elsa Fitria Apriani và cs.
Jurnal Farmasi dan Ilmu Kefarmasian Indonesia. 2023 Dec;10(3):300-311
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm tối ưu hóa thành phần tạo gel trong chế phẩm gel “Sambiloto” chứa cao xuyên tâm liên để chữa lành vết thương ở chuột Wistar đực. Các tác nhân gel hóa là thành phần quan trọng ảnh hưởng đến việc giải phóng các hoạt chất.
Phương pháp: Quá trình tối ưu hóa công thức được thực hiện bằng phương pháp thiết kế thực nghiệm giai thừa bậc hai hai cấp (Regular Two-Level 2² Factorial Design), sử dụng phần mềm Design-Expert 12. Nghiên cứu này sử dụng 0,5%-1% carbopol 940 và 1%-5% natri alginat. Do carbopol 940 và natri alginat có đặc tính khác nhau, cần tối ưu hóa chúng để tạo được gel tốt nhất.
Kết quả: Đánh giá các đặc tính vật lý bằng thiết kế giai thừa cho thấy công thức tối ưu chứa 0,5% carbopol và 5% natri alginat, với các giá trị trung bình về pH, độ nhớt và độ bám dính lần lượt là 5,17 ± 0,04, 2934,452 ± 286,871 cPs và 194,236 ± 3,684 giây. Các phép thử ly tâm và chu kỳ nhiệt cho thấy không có sự thay đổi về cảm quan, tách pha hoặc thay đổi pH đáng kể.
Phân tích ANOVA cho thấy gel chứa 10% cao lá xuyên tâm liên có hoạt tính chữa lành vết bỏng tương đương với chứng dương, với tỷ lệ hồi phục 99,72 ± 0,47% sau 20 ngày. Hiện tượng đóng vảy xuất hiện từ ngày thứ 8 và bong ra vào ngày thứ 12.
Kết luận: Công thức tối ưu của gel “Sambiloto” chứa cao xuyên tâm liên có tiềm năng phát triển thành thuốc chữa vết thương do bỏng.
Vũ Nguyễn Minh Hoa
CÁC DẠNG BÀO CHẾ MICRO VÀ NANO TẢI ANDROGRAPHOLID: CẢI THIỆN SINH KHẢ DỤNG, PHÂN BỐ TỚI MÔ ĐÍCH VÀ HIỆU QUẢ CỦA XUYÊN TÂM LIÊN
Marta Casamonti và cs.
Engineering. 2019 Feb; 5(1): 69-75
Andrographolid (AG) là thành phần đặc trưng của xuyên tâm liên (Andrographis paniculata), họ Ô rô (Acanthaceae). Đây là một loại cây thuốc nổi tiếng ở châu Á, được sử dụng rộng rãi tại Ấn Độ, Trung Quốc và Thái Lan. Theo chuyên luận “Xuyên tâm liên” (Chuanxinlian) của Dược điển Trung Quốc, xuyên tâm liên có tác dụng "thanh nhiệt, giải độc và tiêu sưng". Andrographolid có nhiều hoạt tính tiềm năng, như: chống viêm, điều trị đái tháo đường, bảo vệ thần kinh, chống ung thư, bảo vệ gan và chống béo phì. Tuy nhiên, AG có sinh khả dụng và độ tan trong nước thấp, điều này hạn chế sự phân bố và tích lũy trong cơ thể sau khi sử dụng. Bên cạnh đó, AG không ổn định trong môi trường kiềm và acid của đường tiêu hóa, các báo cáo cũng chỉ ra rằng AG có thời gian bán thải rất ngắn. Trong các giải pháp đã được áp dụng để tăng độ hòa tan trong nước và khả năng thẩm thấu qua màng tế bào của AG, tiếp cận công nghệ được coi là giải pháp hữu ích nhất để phát triển các hệ phân phối thuốc hiệu quả. Bài tổng quan này tổng hợp các nghiên cứu đã công bố liên quan đến vi hạt (MPs) và hạt nano (NPs) chứa AG. Các vi hạt (MPs) tạo thành từ polylactic-glycolic acid (PLGA), acid alginic và dẫn xuất glucan đã được phát triển cho các đường dùng thuốc như đường tiêm, đường uống và đường hô hấp. Các hạt nano (NPs) bao gồm thể vi nang (gồm cả liposome và niosome); hạt nano polymer (dựa trên polyvinyl alcohol, phenylboronic acid polymer hóa, PLGA, albumin huyết thanh người, polyethylcyanoacrylate và micelle polymer); hạt nano lipid rắn; vi nhũ tương và nano nhũ tương; hạt nano vàng; tinh thể nano; và hỗn dịch nano. Việc sử dụng các hệ thống phân phối thuốc trên đã giúp cải thiện sinh khả dụng, phân bố tới mô đích và hiệu quả của andrographolid.
NANOPHYTOSOME CHỨA CAO XUYÊN TÂM LIÊN (ANDROGRAPHIS PANICULATA): HỆ ĐƯA THUỐC TIỀM NĂNG CHO HIỆU QUẢ BẢO VỆ GAN
Poonam Karekar và cs.
Journal of Pharmaceutical Innovation. 2023 Feb;18: 1084–1099
Xuyên tâm liên (Andrographis paniculata) từ lâu đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu nhờ vào tác dụng dược lý đa dạng. Hiện nay, các hoạt chất có trong xuyên tâm liên đang được nghiên cứu chuyên sâu như một chất thay thế bảo vệ gan tự nhiên, có hiệu quả tiềm năng đối với tổn thương gan do rượu gây ra. Tuy nhiên, xuyên tâm liên vẫn tồn tại một số nhược điểm làm hạn chế giá trị điều trị như sinh khả dụng thấp do độ tan trong lipid không đủ và khả năng hấp thu qua đường tiêu hóa kém. Nghiên cứu này nhấn mạnh sự phát triển của các chất mang nano phytosome tự tổ chức phân tử để cải thiện độ tan trong lipid và sinh khả dụng. Trong nghiên cứu này, các nano phytosome chứa cao chiết xuyên tâm liên (APE) đã được thiết kế nhằm cải thiện tốc độ giải phóng thuốc và tác dụng bảo vệ gan của cao chiết.
Các nanophytosome của xuyên tâm liên (APP) được thiết kế bằng phương pháp thiết kế giai thừa toàn phần (full factorial design), có xem xét nhiều biến số để tối ưu hóa công thức. Để mô tả các đặc tính lý hóa, sử dụng các phương pháp: phân tích kích thước hạt, thế zeta, phân tích nhiệt quét vi sai (DSC), quang phổ hồng ngoại biến đổi Fourier (FTIR), phổ nhiễu xạ tia X (PXRD), cộng hưởng từ hạt nhân proton (1H NMR), kính hiển vi điện tử quét (SEM) và các nghiên cứu về độ hòa tan.
PXRD và SEM đã chứng minh sự giảm tính chất kết tinh của nanophytosome. Việc hình thành phức hợp phyto-phospholipid được xác nhận thông qua 1H NMR, DSC và FTIR. Tốc độ hòa tan trong nanophytosome cũng được quan sát thấy tăng lên và được duy trì ổn định. Hơn nữa, trong đánh giá dược động học, APP cho thấy hiệu quả cao hơn so với APE.
Nhìn chung, những phát hiện của nghiên cứu này cho thấy nanophytosome có thể được sử dụng như một hệ đưa thuốc đầy hứa hẹn để kiểm soát giải phóng thuốc (kéo dài thời gian giải phóng) và cải thiện hiệu quả bảo vệ gan của cao chiết xuyên tâm liên.
XUYÊN TÂM LIÊN (ANDROGRAPHIS PANICULATA (BURM. F.) WALL. EX NEES): TỔNG QUAN CẬP NHẬT VỀ HÓA THỰC VẬT, DƯỢC LÝ KHÁNG KHUẨN, ĐỘ AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ TRÊN LÂM SÀNG
Sanower Hossain và cs.
Life. 2021 Feb; 11(4): 348
Bệnh truyền nhiễm (ID) là một trong những mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với sức khỏe con người trên toàn cầu, càng trầm trọng hơn do tình trạng kháng thuốc kháng sinh và thiếu các lựa chọn tiêm chủng mới. Xuyên tâm liên (Andrographis paniculata (Burm. f.) Wall. ex Nees) và các chất chuyển hóa thứ cấp từ lâu đã được sử dụng để điều trị ID. Andrographolid, chiết xuất từ xuyên tâm liên, có thể ức chế các yếu tố độc lực của vi khuẩn xâm lấn và điều chỉnh khả năng miễn dịch của vật chủ. Các thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát cho thấy việc điều trị bằng xuyên tâm liên an toàn và hiệu quả đối với các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính như cảm lạnh thông thường và viêm xoang. Do đó, xuyên tâm liên, chủ yếu là andrographolid có thể được coi là ứng cử viên tuyệt vời cho quá trình phát triển thuốc kháng khuẩn. Dựa trên tầm quan trọng, giá trị y học và vai trò điển hình của các tác nhân kháng khuẩn, nghiên cứu này đã đánh giá chi tiết tiềm năng kháng khuẩn của xuyên tâm liên và các chất chuyển hóa thứ cấp, tập trung vào cơ chế tác động trong việc ức chế vi khuẩn xâm lấn và hình thành màng sinh học. Một đánh giá quan trọng về các chất chuyển hóa thứ cấp với mục đích xác định các hợp chất tinh khiết có chức năng kháng khuẩn đã bổ sung thêm giá trị có ý nghĩa khoa học cho nghiên cứu này. Mặc dù xuyên tâm liên là nguồn cung cấp các tác nhân kháng khuẩn đầy hứa hẹn và phương pháp điều trị an toàn cho ID, nhưng vẫn cần nghiên cứu thực nghiệm sâu hơn nữa.
Nguyễn Thị Minh Phượng
XUYÊN TÂM LIÊN (ANDROGRAPHIS PANICULATA (BURM. F.) WALL. EX NEES): CÔNG DỤNG TRUYỀN THỐNG, HÓA THỰC VẬT, ĐẶC TÍNH DƯỢC LÝ VÀ KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG/ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG
Sunil Kumar và cs.
Journal of Ethnopharmacology. 2021 Apr; 275:114054
Xuyên tâm liên (Andrographis paniculata (Burm. f.) Wall. ex Nees) là một loại thảo dược của các nước châu Á được sử dụng trong nhiều hệ thống y học cổ truyền để điều trị tiêu chảy, cúm, bệnh phong, bệnh leptospirosis (bệnh xoắn khuẩn vàng da), sốt rét, bệnh dại, nhiễm trùng đường hô hấp trên, viêm xoang, giang mai, lao và HIV/AIDS, v.v.
Mục đích của nghiên cứu: Bài đánh giá này nhằm cung cấp thông tin toàn diện, chính xác và xác thực về công dụng truyền thống, thành phần hóa học và đặc tính dược lý của nhiều loại cao chiết /phân đoạn cũng như các thành phần hợp chất của xuyên tâm liên. Ngoài ra, bài tổng quan này cũng nhằm cung cấp các phương pháp phân tích tiên tiến và độ nhạy cao cùng với các chất đánh dấu hóa học được sử dụng trong quá trình chuẩn hóa các sản phẩm thảo dược để kiểm soát chất lượng (QC)/đảm bảo chất lượng (QA).
Vật liệu và phương pháp: Tất cả các ấn phẩm có liên quan đã được xem xét trong những năm 1983–2020. Các ấn phẩm được tìm kiếm từ Google Scholar, PubChem, Chemspider, PubMed, Elsevier, Wiley, Web of Science, China Knowledge Resource Integrated databases và ResearchGate bằng cách kết hợp nhiều từ khóa có liên quan. Bên cạnh đó, các sách và chương đã xuất bản có liên quan cũng được xem xét, những sách và chương này cung cấp tổng quan về các tài liệu thứ cấp hiện có liên quan đến kiến thức cổ truyền, hóa thực vật, dược lý và độc tính của cây.
Kết quả và thảo luận: Trong bài tổng quan này, 344 hợp chất, bao gồm các lactone terpenoid, flavonoid, acid phenolic, triterpene và các hợp chất dễ bay hơi đã được liệt kê ra, trong đó hơn một nửa số hợp chất chưa có hoạt tính dược lý nào được báo cáo. Lactone terpenoid và flavonoid là các nhóm hợp chất có hoạt tính sinh học chính của xuyên tâm liên, chịu trách nhiệm cho các tác dụng dược lý như hoạt tính chống ung thư và chống oxy hóa. Các con đường sinh tổng hợp và các vị trí hoạt động cho các protein mục tiêu của cả lactone terpenoid và flavonoid đã được xem xét. Hoạt tính giảm đau, chống ung thư, chống đái tháo đường, chống sinh sản, chống viêm, chống sốt rét, kháng khuẩn, chống oxy hóa, hạ sốt, kháng vi-rút, kháng retro-vi-rút, giải độc nọc rắn, bảo vệ tim, bảo vệ gan, điều hòa miễn dịch và bảo vệ thần kinh cũng đã được báo cáo. Andrographolid là thành phần có hoạt tính chính và chịu trách nhiệm cho hầu hết các tác dụng dược lý. Do đó, andrographolid đã được chọn làm chất đánh dấu để chuẩn hóa nguyên liệu xuyên tâm liên và các sản phẩm thảo dược được bán trên thị trường bằng các phương pháp TLC, HPTLC, HPLC, GC-MS, HPLC-MS và HPLC-MS/MS cho QC/QA.
Kết luận: Bằng chứng thuyết phục cho thấy các tác dụng dược lý của cao chiết thô và các chất đánh dấu hóa học đã hỗ trợ và cung cấp minh chứng cho việc sử dụng xuyên tâm liên như một loại thuốc thảo dược trong y học cổ truyền. Andrographolid có thể được sử dụng làm chất đánh dấu hóa học cho QC/QA của nguyên liệu và các sản phẩm thảo dược từ xuyên tâm liên. Vòng lacton trong lacton terpenoid là một vị trí hoạt động cho các protein mục tiêu. Cần tập trung nhiều nỗ lực hơn vào việc xác định các chất đánh dấu hóa học từ xuyên tâm liên để cung cấp cơ sở thực tế cho QC/QA. Một số khía cạnh như tiềm năng điều trị, công nghệ docking phân tử và dược lý học mạng lưới đa mục tiêu rất quan trọng đối với việc khám phá thuốc và cần được quan tâm trong nghiên cứu thêm về xuyên tâm liên. Biên soạn này có thể hữu ích trong nghiên cứu sâu hơn và QC/QA.
XUYÊN TÂM LIÊN (ANDROGRAPHIS PANICULATA (BURM. F.) WALL. EX NEES) VÀ HOẠT CHẤT CHÍNH ANDROGRAPHOLID NHƯ LÀ TÁC NHÂN KHÁNG VI-RÚT TIỀM NĂNG
Maoyuan Jiang và cs.
Journal of Ethnopharmacology. 2021 May; 272: 113954
Xuyên tâm liên (Andrographis paniculata (Burm. f.) Wall. ex Nees) được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới, đặc biệt là ở các vùng cận nhiệt đới như Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam và Trung Quốc. Là một loại thuốc dân gian truyền thống của Trung Quốc, xuyên tâm liên đã được sử dụng rộng rãi để điều trị cảm lạnh, sốt, đau họng, ho, nhọt, loét, và thường được dùng để “thanh nhiệt và giải độc”. Các triệu chứng điển hình của “nhiệt và độc” bao gồm nướu răng sưng, đau, liên quan đến các bệnh liên quan đến vi-rút ở mức độ lớn. Các thí nghiệm in vivo và in vitro đã chứng minh các đặc tính kháng vi-rút tiềm năng của xuyên tâm liên và xác định các thành phần hoạt tính chính của xuyên tâm liên chống lại nhiều loại vi-rút khác nhau.
Mục đích của nghiên cứu: Bài tổng quan này tập trung vào việc liên kết tác dụng 'thanh nhiệt và giải độc' truyền thống với những tiến bộ nghiên cứu gần đây về tác dụng kháng vi-rút của xuyên tâm liên, giải thích các cơ chế kháng vi-rút và đánh giá những tồn tại/hạn chế của các công trình hiện có. Bên cạnh đó, thực vật học dân tộc, tác dụng dược lý học dân tộc, thành phần hóa thực vật và độc tính của xuyên tâm liên đã được nghiên cứu.
Vật liệu và phương pháp: Thông tin về xuyên tâm liên được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau bao gồm các cuốn sách kinh điển về y học thảo dược Trung Quốc và các cơ sở dữ liệu khoa học bao gồm WEB OF SCIENCE, PubMed, Science Direct, Springer, ACS, SCOPUS, CNKI, CSTJ và WANFANG.
Kết quả: Tổng quan này đã chỉ ra các cơ chế cơ bản của tác dụng kháng vi-rút chủ yếu liên quan đến việc kiểm soát sự xâm nhập của vi-rút, sao chép gen và tổng hợp các protein trưởng thành về mặt chức năng. Ngoài ra, xuyên tâm liên là một tác nhân an toàn mà không có độc tính rõ ràng. Các thông tin về thực vật học dân tộc, công dụng dược lý học dân tộc và thành phần hóa học đã được tóm tắt.
Kết luận: Xuyên tâm liên có thể được sử dụng như một loại thuốc bổ sung bắt buộc để điều trị nhiều loại nhiễm vi-rút khác nhau, do đó cần phải nỗ lực nghiên cứu sâu hơn về các đặc tính kháng vi-rút của xuyên tâm liên.
XÁC ĐỊNH CƠ CHẾ CỦA XUYÊN TÂM LIÊN (ANDROGRAPHIS PANICULATA (BURM. F.) WALL. EX NEES) ĐỐI VỚI NHIỄM TRÙNG ĐƯỜNG HÔ HẤP TRÊN BẰNG PHƯƠNG PHÁP DƯỢC LÝ MẠNG VÀ DOCKING PHÂN TỬ
Ly Thi Dương Truc và cs.
Journal of Pharmacy & Pharmacognosy Research. 2023; 13(3): 878-891
Trong y học Trung Quốc và Ayurvedic, xuyên tâm liên (Andrographis paniculata (Burm. f.) Wall. ex Nees) theo truyền thống được sử dụng như một phương thuốc chữa cảm lạnh và cúm, đặc biệt là để làm giảm sốt liên quan đến các bệnh nhiễm như nhiễm trùng đường hô hấp trên (URI).
Mục tiêu: Xác định cơ chế chống nhiễm trùng tiềm năng của xuyên tâm liên đối với các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp trên thông qua dược lý mạng và mô phỏng docking phân tử.
Phương pháp: Ban đầu, các thành phần hóa học có hoạt tính của xuyên tâm liên được xác định bằng hệ thống cơ sở dữ liệu Dược lý-Y học cổ truyền Trung Quốc. Sau đó, các gen mục tiêu của các thành phần hoạt động này được xác định bằng cơ sở dữ liệu UniProtKB, trong khi các gen mục tiêu liên quan đến các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp trên được xác định thông qua cơ sở dữ liệu GeneCards. Mạng lưới hợp chất-mục tiêu của AP được xây dựng bởi Cytoscape. Mạng lưới tương tác protein-protein được tạo ra bằng cơ sở dữ liệu STRING. Phân tích sâu hơn được thực hiện thông qua cơ sở dữ liệu DAVID, các phân tích tích hợp công cụ Gene Ontology và KEGG.
Kết quả: Hai mươi hai hoạt chất của xuyên tâm liên và các con đường chìa khóa chính nổi bật quyết định tác dụng điều trị URI như truyền tín hiệu TNF, truyền tín hiệu IL-17 và nhiễm cytomegalovirus ở người đã được xác định. Ngoài ra, các gen đích của xuyên tâm liên bao gồm TNF, IL6, AKT1, TP53, CXCL8, CASP3 và PTGS2, được xác định là có ý nghĩa trong việc điều chỉnh các quá trình và con đường sinh học này.
Kết luận: Nghiên cứu này cung cấp những hiểu biết có giá trị về cơ chế tác động của xuyên tâm liên trong việc điều trị URI, đặt nền tảng cho các nghiên cứu sâu hơn trong lĩnh vực này.
HỆ ĐƯA THUỐC TỰ VI NHŨ HÓA “SMEDDS” GIÚP PHÂN PHỐI ANDROGRAPHOLID HIỆU QUẢ QUA ĐƯỜNG UỐNG
Nallamolu và cs.
Drug Delivery Letters. 2020 Jul; 10(1): 38-53
Mục tiêu: Andrographolid có hoạt tính chống ung thư và kháng khuẩn mạnh; tuy nhiên, ứng dụng lâm sàng của nó bị hạn chế do độ hòa tan trong nước kém cũng như thiếu công thức bào chế phù hợp. Mục tiêu của nghiên cứu này là xây dựng hệ đưa thuốc tự vi nhũ hóa (SMEDDS) của andrographolid và nghiên cứu khả năng phân phối thuốc qua đường uống của nó.
Phương pháp: Andrographolid SMEDDS được tối ưu hóa bằng giản đồ ba pha và được nghiên cứu về các đặc điểm in-vitro: Kích thước hạt, chụp ảnh kính hiển vi điện tử, chỉ số đa phân tán, điện tích bề mặt, hiệu ứng pha loãng, độ ổn định pH, hiệu ứng đông-chảy, dữ liệu vế tính tan và các nghiên cứu về độ ổn định. Ngoài ra, khả năng kháng khuẩn và gây độc tế bào của andrographolid SMEDDS đã được đánh giá lần lượt trên các dòng tế bào ung thư vú MCF–7 và các vi khuẩn kháng methicillin (MRSA). Kết quả: Một công thức SMEDDS andrographolid tối ưu đã được bào chế thành công và được đánh giá về tiềm năng phân phối thuốc. Độ hòa tan của andrographolid trong công thức SMEDDS đã tăng lên đáng kể, và lượng thuốc tải đủ để làm cho loại thuốc này có thể áp dụng trên lâm sàng. Công thức SMEDDS andrographolid đã ức chế cạnh tranh sự phát triển của vi khuẩn và cho thấy hoạt tính kháng vi khuẩn MRSA tăng lên.
Kết luận: SMEDDS là một trong những phương pháp tốt nhất để phân phối andrographolid qua đường uống, đồng thời giải quyết các hạn chế về độ hòa tan của nó.
Đàm Thị Thanh Nhàn
XUYÊN TÂM LIÊN (ANDROGRAPHIS PANICULATA) VÀ ANDROGRAPHOLID - MỘT CÁI NHÌN TỔNG QUAN VỀ NHỮNG TIẾN BỘ GẦN ĐÂY TRONG HỆ THỐNG PHÂN PHỐI THUỐC NANO CHỐNG LẠI UNG THƯ
Rohitas Deshmukh và cs.
Curr Drug Deliv. 2024 Jan; 21(5):631-644
Ung thư là một trong những căn bệnh nguy hiểm nhất của thế kỷ 21. Cả liệu pháp hóa trị và xạ trị đều có tác dụng phụ đáng kể. Các kháng sinh kháng ung thư là một trong số đó. Ho, cảm lạnh thông thường, sốt, viêm thanh quản và các rối loạn nhiễm trùng đều đã được điều trị bằng xuyên tâm liên (Andrographis paniculata) trong nhiều thế kỷ. Các cao chiết xuyên tâm liên có hiệu quả điều trị nhiều bệnh khác nhau, cũng như ung thư. Hoạt chất có hoạt tính mạnh nhất của xuyên tâm liên là andrographolid, một diterpene lactone. Xuyên tâm liên và các dẫn xuất từ lâu đã được sử dụng để điều trị nhiều bệnh khác nhau. Các đặc tính chống viêm và chống ung thư đã được ghi nhận ở andrographolid. Andrographolid cũng đã được chứng minh là có các đặc tính bảo vệ sinh học quan trọng và thiết yếu. Người ta cho rằng andrographolid có thể được sử dụng để điều trị các bệnh lý nghiêm trọng ở người như viêm khớp dạng thấp, viêm đại tràng và bệnh Parkinson. Tóm tắt này nhằm mục đích nhấn mạnh andrographolid có thể là lựa chọn điều trị ung thư đầy triển vọng. Một số cơ sở dữ liệu đã được tìm kiếm để tìm hiểu về tác dụng gây độc tế bào/chống ung thư của andrographolid trong nghiên cứu tiền lâm sàng và lâm sàng để phục vụ mục đích này. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng andrographolid hữu ích trong điều trị ung thư, như được trình bày chi tiết trong bài tổng quan này.
Đàm Thị Thanh Nhàn, Đỗ Thị Huyền Trang
TỔNG QUAN VỀ DẠNG BÀO CHẾ CỦA XUYÊN TÂM LIÊN (ANDROGRAPHIS PANICULATA) VÀ NHỮNG TIẾN BỘ TRONG HỆ THỐNG PHÂN PHỐI THUỐC NANO
Subashini Raman và cs.
Molecules. 2022 Jul; 27(19):6164
Xuyên tâm liên (Andrographis paniculata) là một cây thuốc nổi tiếng ở Châu Á với thành phần hóa học chính là diterpene lactone, chẳng hạn như andrographolid, 14-deoxyandrographolid và neoandrographolid. Một chuyên khảo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) về các loại cây thuốc được chọn đã chỉ ra rằng các cao chiết xuyên tâm liên và các diterpene lactone chính có hoạt tính chống viêm, chống đái tháo đường, chống sốt rét, chống ung thư, chống nấm, kháng khuẩn, chống oxy hóa và hạ đường huyết đầy hứa hẹn. Tuy nhiên, các hoạt chất này có độ tan trong nước và sinh khả dụng kém khi được sử dụng ở dạng bào chế thông thường. Những rào cản sinh học này có thể được giảm thiểu nếu cao chiết hoặc các chất phân lập được đưa vào cơ thể dưới dạng các hạt nano. Bài tổng quan này thảo luận về các nghiên cứu hiện có và các sản phẩm đã được đưa ra trên thị trường của xuyên tâm liên ở dạng bào chế rắn, lỏng, bán rắn và khí, dưới dạng cao hoặc các hợp chất phân lập, cũng như những hạn chế của chúng trong việc đạt được sinh khả dụng tối đa. Đặc điểm dược lý và dược động học của xuyên tâm liên khi được sử dụng dưới dạng hệ đưa thuốc nano cũng được thảo luận.
TỔNG HỢP HẠT NANO OXID ĐỒNG BẰNG PHƯƠNG PHÁP HỖ TRỢ VI SÓNG SỬ DỤNG CAO CHIẾT LÁ XUYÊN TÂM LIÊN (ANDROGRAPHIS PANICULATA): ĐẶC TÍNH VÀ TÁC DỤNG SINH HỌC ĐA CHỨC NĂNG
Mahalakshmi Devaraji và cs.
Nano-Structures & Nano-Objects. 2024 Dec; 40:101376
Đỗ Thị Huyền Trang
TỔNG QUAN VỀ HIỆU QUẢ KHÁNG VI-RÚT CỦA XUYÊN TÂM LIÊN (ANDROGRAPHIS PANICULATA) VÀ CÁC ANDROGRAPHOLID
Chidambaram và cs.
Asian Pacific Journal of Tropical Biomedicine. 2024 Nov; 14(11):461-476
Sự gia tăng của các bệnh truyền nhiễm mới đã trở nên nổi bật đáng kể do những thay đổi về sinh thái và đột biến của các tác nhân gây bệnh gần đây. Sự bùng phát bệnh đường hô hấp do đại dịch COVID-19 đã lan rộng trên toàn cầu. Các sản phẩm tự nhiên đa dạng về cấu trúc và hoạt tính sinh học, góp phần đề xuất nhiều lựa chọn để tìm ra các loại thuốc kháng vi-rút mới với các mục tiêu và cơ chế độc đáo. Xuyên tâm liên đã được sử dụng trong y học cổ truyền Ấn Độ, Thụy Điển, Thái Lan và Trung Quốc để làm giảm các triệu chứng ho, cảm lạnh và cúm. Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm ở giai đoạn đầu chỉ ra rằng cao chiết xuyên tâm liên có thể làm giảm viêm và sốt, đồng thời tăng cường khả năng phòng vệ tự nhiên của cơ thể chống lại vi-rút, dẫn đến làm giảm các triệu chứng. Bài tổng quan này nhằm mục đích trình bày một cách có hệ thống dữ liệu thử nghiệm lâm sàng về các chế phẩm thảo dược kháng vi-rút có nguồn gốc từ xuyên tâm liên, mô tả tác dụng kháng virus của cả các hợp chất tự nhiên và dẫn xuất tổng hợp từ xuyên tâm liên, kèm theo các phân tích in silico.
PHÁT HIỆN BẰNG NGHIÊN CỨU IN-SILICO CÁC HỢP CHẤT THỰC VẬT TIỀM NĂNG TRONG XUYÊN TÂM LIÊN (ANDROGRAPHIS PANICULATA) ỨC CHẾ PROTEIN E6 CỦA PHÂN NHÓM NGUY CƠ CAO HPV-16 TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ CỔ TỬ CUNG
Md. Aminul Islam và cs.
Scientific Reports. 2024 Jul; 14:17182
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong điều trị, ung thư cổ tử cung do các phân nhóm nguy cơ cao của vi-rút papilloma ở người (HPV) vẫn là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở phụ nữ trên toàn thế giới. Nghiên cứu này nhằm mục đích khám phá các ứng viên thuốc tiềm năng từ cây thuốc châu Á xuyên tâm liên, chứng minh hiệu quả chống lại protein E6 của phân nhóm nguy cơ cao HPV-16 thông qua nghiên cứu sàng lọc in-silico. Cấu trúc 3D của 32 hợp chất (được chọn từ 42) được phân lập từ xuyên tâm liên, có ái lực liên kết cao hơn, đã được lấy từ cơ sở dữ liệu PubChem. Các cấu trúc này đã trải qua quá trình phân tích và sàng lọc dựa trên các tiêu chí bao gồm năng lượng liên kết, docking phân tử, đặc điểm giống thuốc và dự đoán độc tính bằng các kỹ thuật trên máy tính. Xem xét đặc tính quang phổ, đặc tính dược động học, kết quả docking phân tử, đặc điểm giống thuốc và dự đoán độc tính, năm hợp chất-stigmasterol, acid 1H-Indole-3-carboxylic, 5-methoxy-, methyl ester (AP7), andrographolid, apigenin và wogonin đã được chọn làm chất ức chế tiềm năng đối với protein E6 của HPV-16. Chúng tôi cũng thực hiện mô phỏng động lực học phân tử 200 ns của các hợp chất để phân tích độ ổn định và tương tác của chúng dưới dạng các phức hợp protein-phối tử sử dụng imiquimod (CID-57469) làm đối chứng. Các hợp chất đã qua sàng lọc cho thấy các đặc điểm thuận lợi, bao gồm giá trị độ lệch chuẩn trung bình ổn định, biến thiên giá trị trung bình thấp và giá trị bán kính quay ổn định. Các tương tác giữa các phân tử, ví dụ như liên kết hydro và tương tác kỵ nước, được duy trì trong suốt quá trình mô phỏng. Các hợp chất thể hiện ái lực tiềm năng, biểu thị bởi các giá trị năng lượng tự do liên kết âm. Nhìn chung, những phát hiện từ nghiên cứu này cho thấy các hợp chất được chọn có khả năng hoạt động như chất ức chế protein E6 của HPV-16, mở ra triển vọng đầy hứa hẹn cho việc điều trị và quản lý ung thư cổ tử cung.
TÁC DỤNG giảm đau và hạ sốt của viên nén CHỨA phân đoạn ethyl acetat của xuyên tâm liên (ANDROGRAPHIS PANICULATA) trên CÁC mô hình động vật
Hilkatul Ilmi và cs.
Evidence Based Complementary and Alternative Medicine. 2021 Feb; 1:1-8
Mục tiêu: Xác định hoạt tính giảm đau và hạ sốt của viên nén có nguồn gốc từ phân đoạn ethyl acetat của xuyên tâm liên (Andrographis paniculata, AS201-01) trên mô hình động vật.
Phương pháp: Viên nén có nguồn gốc từ AS201-01 chứa tương đương 35 mg andrographolid trên mỗi viên nén. Tác dụng giảm đau được xác định bằng thực nghiệm acid acetic gây đau xoắn bụng trên chuột nhắt trắng đực trưởng thành. Một lần xoắn bụng được ghi lại bằng đồng hồ bấm giờ và được định nghĩa là sự co thắt cơ bụng và/hoặc sự duỗi của ít nhất một chi sau. Để xác định tác dụng hạ sốt, sử dụng mô hình gây sốt bằng cách tiêm dưới da 15% w/v men Brewer’s vào chuột cống trắng đực trưởng thành. Nhiệt độ trực tràng được theo dõi sau 1, 2, 3 và 4 giờ sau khi điều trị.
Kết quả: Kết quả cho thấy viên nén AS201-01 có tác dụng giảm đau và hạ sốt. Trong thực nghiệm acid acetic gây đau xoắn bụng, viên AS201-01 cho thấy tác dụng giảm đau đáng kể với 66,73% giảm đáp ứng xoắn bụng ở liều 50 mg andrographolid/kg trọng lượng cơ thể so với nhóm đối chứng âm. Viên nén cũng cho thấy tác dụng hạ sốt đáng kể. Tác dụng hạ sốt tối đa được quan sát thấy sau 3 giờ sử dụng viên AS201-01 với liều 100 mg andrographolid/kg trọng lượng cơ thể.
Kết luận: Viên nén chứa cao phân đoạn ethyl acetat của xuyên tâm liên (AS201-01) thể hiện tác dụng giảm đau và hạ sốt.
Chu Quang Trí
BÀO CHẾ VÀ ĐẶC TÍNH CỦA CÁC HẠT NANO CHITOSAN TẢI CAO CHIẾT XUYÊN TÂM LIÊN (ANDROGRAPHIS PANICULATA)
Rosnani Hasham Rosnani và cs.
Materials Today: Proceedings. 2024; 110:106-109.
Xuyên tâm liên (Andrographis paniculata) là một loại thảo dược đa dụng được sử dụng ở Malaysia với đặc tính chống ung thư nổi bật. Trở ngại chính trong việc đưa các chế phẩm từ xuyên tâm liên vào sử dụng trong lâm sàng bởi việc tải và giải phóng thuốc không hiệu quả. Do đó, nghiên cứu này nhằm mục đích sàng lọc và đánh giá các biến số quan trọng của quá trình bào chế hạt nano chitosan tải cao chiết xuyên tâm liên, với mục tiêu tổng hợp các hạt nano có kích thước nhất định. Chín công thức đã được bào chế và đánh giá với các biến về kích thước hạt, chỉ số đa phân tán và hiệu quả bao gói bằng cách thay đổi tỷ lệ khối lượng giữa chitosan và tripolyphosphate (2:1, 4:1 và 6:1) và thời gian phản ứng (30 phút, 60 phút và 90 phút). Công thức tiềm năng nhất sau đó được kiểm tra về điện thế zeta, hình dạng và độ ổn định. Công thức tối ưu có kích thước 79,68 ± 0,30 nm, PDI là 0,200 ± 0,013 và hiệu quả bao gói là 81,71 ± 1,486%. Điện thế zeta của công thức được chọn được đo ở mức -4,60 ± 0,711 mV và vi ảnh cho thấy các hạt nano có hình cầu và bề mặt mịn khi phân tán. Những phát hiện này chỉ ra rằng các hạt nano được bào chế có thể thu được kích thước tương đối nhỏ dưới 600 nm trong các điều kiện cụ thể.
SẢN XUẤT DITERPENOID LACTONE BẰNG CÔNG NGHỆ SINH HỌC TỪ NUÔI CẤY TẾ BÀO VÀ NUÔI CẤY MÔ CỦA ANDROGRAPHIS PANICULATA
Hosakatte Niranjana Murthy và cs.
Appl Microbiol Biotechnol. 2021, 105(20):7683-7694.
Andrographis paniculata (AP) là một loại cây thuốc được sử dụng truyền thống ở Ấn Độ, Trung Quốc, Malaysia,Thái Lan và hệ thống y học phương đông để điều trị nhiều bệnh. AP chứa andrographolide (AD), 14-deoxy-11,12-didehydroandrographolide (DDAD) và neoandrographolide (NAD) là các diterpene lactone chính có đặc tính cực kỳ đắng; do đó, AP thường được gọi là "Vua của các vị đắng". AD, DDAD và NAD được báo cáo là có các giá trị dược lý như chống oxy hóa, kích thích miễn dịch, bảo vệ gan, chống ung thư, chống viêm, chống thấp khớp, chống sốt rét, chống leishmania, chống vô sinh, chống béo phì, hạ sốt và kháng khuẩn. Theo Dược điển Ấn Độ, lá và chồi non của AP cho hàm lượng lên đến 1%, 0,16% và 0,11% AD, DDAD và NAD theo trọng lượng khô. Tuy nhiên, sự biến thiên trong việc tích lũy AD, DDAD và NAD ở cây trồng đã được báo cáo liên quan đến loài, kiểu gen, mùa vụ, giai đoạn sinh học, bộ phận của cây được sử dụng và vùng canh tác. Do đó, các hệ thống nuôi cấy mô tế bào, đặc biệt là nuôi cấy tế bào, chồi và rễ bất định được đánh giá như các giải pháp thay thế để sản xuất AD, DDAD và NAD ổn định và năng suất hơn. Bài tổng quan này khám phá triển vọng khai thác các hệ thống nuôi cấy tế bào và mô thực vật để sản xuất có kiểm soát AD, DDAD và NAD. Nhiều chiến lược khác nhau như kích thích bằng cách sử dụng các tác nhân sinh học và hóa học được khám phá để tăng cường sự tích lũy AD, DDAD và NAD trong nuôi cấy tế bào và cơ quan.
Đào Xuân Quang
TĂNG CƯỜNG SINH KHỐI THỰC VẬT THÔNG QUA CHẤT ĐIỀU HÒA SINH TRƯỞNG VÀ CHẤT KÍCH THÍCH TĂNG TRƯỞNG THỰC VẬT VÀ SẢN XUẤT ANDROGRAPHOLIDE CỦA CÂY CON CÓ NGUỒN GỐC TỪ NUÔI CẤY ĐỈNH CHỒI CỦA ANDROGRAPHIS PANICULATA (BURM.F.) WALL. (HEMPEDU BUMI)
Aicah Patuhai và cs.
Plants (Basel). 2023, 15;12(16):2953.
Andrographis paniculata (Burm.f.) Wall. (họ Acanthaceae) được sử dụng vì các đặc tính làm thuốc của nó. Nuôi cấy in vitro các loại cây thuốc đã giúp cải thiện cả số lượng và chất lượng sản lượng của chúng. Nghiên cứu này đã khảo sát tác động của các phương pháp xử lý khử trùng bề mặt khác nhau, chất điều hòa (PGRs) và kích thích sinh trưởng thực vật lên quá trình thiết lập nuôi cấy và nhân chồi nách của A. paniculata. Sau đó, quá trình sản xuất andrographolide trong các cây con in vitro đã được đánh giá bằng cách sử dụng phân tích sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC). Mẫu mô chồi đỉnh đã được khử trùng thành công bằng 60% thuốc tẩy thương mại trong 5 phút với tỷ lệ sống sót là 90% và tỷ lệ nuôi cấy vô trùng là 96,67%. PGR tối ưu cho sự phát triển của chồi là 6-benzylaminopurine (BAP) ở mức 17,76 µM, được bổ sung vào môi trường Murashige và Skoog (MS), tạo ra 23,57 ± 0,48 lá, 7,33 ± 0,10 chồi và chiều dài chồi là 3,06 ± 0,02 cm. Sau đó, môi trường MS bổ sung 5 mg/L chitosan tạo ra 26,07 ± 0,14 lá, 8,33 ± 0,07 chồi và chiều dài chồi là 3,63 ± 0,02 cm. Hàm lượng andrographolide cao nhất thu được bằng cách sử dụng cây con được thu từ chitosan 5 mg/L với 2463,03 ± 0,398 µg/mL so với đối chứng (không có sự kích thích) với 256,73 ± 0,341 µg/mL (tăng 859,39%). Kết quả đã thiết lập được quy trình nuôi cấy chồi đỉnh của A. paniculata và sử dụng chất kích thích sinh trưởng đã làm tăng năng suất dược liệu và sản xuất andrographolide.
SỬ DỤNG ĐƯỜNG HƯỚNG DXP ĐỂ SẢN XUẤT ANDROGRAPHOLIDE TRONG NUÔI CẤY MÔ SẸO CỦA ANDROGRAPHIS PANICULATA
Debalina Das và cs.
Planta. 2021, 5;254(2):23.
Andrographolide, hợp chấtcó hoạt tính sinh học sơ cấp của Andrographis paniculata, được sản xuất thông qua hoạt động phối hợp của hai đường hướng: chuyển hóa mevalonate trong tế bào chất và không chuyển hóa mevalonate trong lạp thể (đường hướng Deoxy-xylulose Phosphate). Nuôi cấy mô sẹo A. paniculata là nguồn sản xuất hữu ích, cũng như điều chỉnh andrographolide, và nghiên cứu này được thiết kế để khám phá chiến lược ức chế đường hướng sản xuất quá mức của nó. Khi bổ sung chất khóa con đường mevalonate tế bào chất, lovastatin, trong nuôi cấy mô sẹo của A. paniculata, sản xuất andrographolide được cải thiện so với đối chứng không được xử lý. Ngược lại, xử lý mô sẹo bằng chất khóa đường hướng DXP, fosmidomycin, dẫn đến sự suy giảm sản xuất andrographolide. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng khi bổ sung nitrat bạc, một chất kích thích mạnh sản xuất andrographolide trong nuôi cấy mô sẹo in-vitro, kết hợp với các chất ức chế đường hướng đã dẫn đến những thay đổi trong sản xuất andrographolide. Sản lượng andrographolide cao nhất thu được ở mô sẹo được xử lý bằng sự kết hợp của bạc nitrat và lovastatin, cho thấy vai trò chủ yếu của con đường DXP ty thể trong quá trình sinh tổng hợp andrographolide. Mối tương quan mạnh với hàm lượng diệp lục và sản lượng andrographolide trong nuôi cấy mô sẹo trong in-vitro (không xử lý và có xử lý) cũng được quan sát thấy đã hỗ trợ cho giả định trên. Nghiên cứu này có thể giải thích rằng việc hóa xanh mô sẹo thông qua việc tổ chức bào quan là một chiến lược hiệu quả để tăng cường tích lũy andrographolide trong mô sẹo của A. paniculata.
ẢNH HƯỞNG IN-VITRO CỦA COLCHIPLOIDY ĐỐI VỚI SỰ TĂNG CƯỜNG ANDROGRAPHOLIDE Ở ANDROGRAPHIS PANICULATA (BURM.F.) WALL. EX. NEES.
Lekshmi Priya và P.R. Unnikrishna Pillai
South African Journal of Botany. 2023, 163(1)
Một phương pháp in vitro để tăng cường sản xuất andrographolide ở loài Andrographis paniculata đã được phát triển bằng sử dụng colchiploidy. Andrographis paniculata (Burm.f.) Wall. ex. Nees. là cây thuốc thân thảo hàng năm lưỡng bội với 2n = 50, thuộc họ Acanthaceae. Andrographolide là chất chuyển hóa thứ cấp chính có trong thực vật và có giá trị thương mại đáng kể do các đặc tính dược lý của nó. Mục tiêu của nghiên cứu này là khảo sát tác động in vitro của colchiploid đối với sản xuất andrographolide. Ngoài ra, chúng tôi đặt mục tiêu so sánh tác động này ở mô sẹo được nuôi cấy in vitro từ cây colchiploid với những mô sẹo có nguồn gốc từ cây lưỡng bội. Colchiploidy được tạo ra khi cây con của loài A. paniculata được xử lý với 0,1% (w / v) colchicine trong 12 giờ trong điều kiện tối. Nuôi cấy mô sẹo của Andrographis paniculata từ mẫu lá của cây colchiploid trên môi trường gel Murashige và Skoog (MS) 0,8% agar được bổ sung 5,0 µM 2,4-D + 2,3 µM Kinetin và 3% sucrose. Sản lượng andrographolide tăng đáng kể (2,4%) đạt được ở mô sẹo colchiploid so với mô sẹo lưỡng bội (0,015%) định lượng bằng phân tích sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC). Cây có lượng chất chuyển hóa thứ cấp sinh lý hoạt động cao hơn phát sinh do kết quả của đa bội hóa. Phương pháp sản xuất andrographolide này có thể được sử dụng để thu hoạch andrographolide trên quy mô lớn.
TỔNG QUAN TOÀN DIỆN VỀ ANDROGRAPHIS PANICULATA (BURM. F.) NEES VÀ CÁC THÀNH PHẦN CỦA NÓ LÀ CÁC HỢP CHẤT TIỀM NĂNG DẪN ĐẦU CHO VIỆC TÌM RA THUỐC ĐIỀU TRỊ COVID-19
Aekkhaluck Intharuksa và cs.
Molecules. 2022, 13;27(14):4479.
Đại dịch COVID-19 đã gây gián đoạn nghiêm trọng đến sức khỏe, kinh tế và phúc lợi toàn cầu. Andrographis paniculata (Burm. f.) Nees đã được sử dụng như một trị liệu bổ sung cho COVID-19 ở một số quốc gia châu Á. Bài tổng quan này nhằm mục đích tóm tắt thông tin có sẵn về A. paniculata và các thành phần của nó, để cung cấp các điểm quan trọng liên quan đến tính chất dược lý, độ an toàn và hiệu quả của loài, mở ra tiềm năng của loài trong vai trò là nguồn hợp chất dẫn đầu cho việc khám phá thuốc điều trị COVID-19. A. paniculata và các hoạt chất của loài có hoạt tính kháng vi-rút, chống viêm, điều hòa miễn dịch và hạ sốt có lợi cho việc điều trị COVID-19. Điều thú vị là các nghiên cứu in silico và in vitro gần đây đã chỉ ra rằng các thành phần hoạt tính trong A. paniculata cho thấy tác dụng tiềm năng chống lại 3CLpro và protein mục tiêu đặc hiệu của vi-rút, protein hACE2 ở người; chúng cũng ức chế sản xuất virion truyền nhiễm. Hơn nữa, các công bố hiện có liên quan đến các thử nghiệm có kiểm soát ngẫu nhiên đã chứng minh rằng việc sử dụng A. paniculata đơn lẻ hoặc kết hợp có hiệu quả hơn giả dược trong việc làm giảm mức độ nghiêm trọng của các biểu hiện nhiễm trùng đường hô hấp trên (URTI), đặc biệt là khi điều trị sớm, mà không có tác dụng phụ nghiêm trọng. Xét về mặt hóa học và sinh học, đặc biệt là hoạt tính kháng vi-rút của nó đối với SARS-CoV-2, các thử nghiệm lâm sàng về URTI và tính an toàn của A. paniculata, như đã thảo luận trong bài tổng quan này, ủng hộ lập luận rằng A. paniculata là nguồn tự nhiên đầy hứa hẹn để phát hiện thuốc liên quan đến điều trị sau nhiễm COVID-19, thay vì dự phòng.
NHÂN NHANH, TÁI SINH VÀ RA RỄ IN VITRO CÂY XUYÊN TÂM LIÊN (ANDROGRAPHIS PANICULATA NEES.)
Raajesh K. Yadav và cs.
Journal of Emerging Technologies and Innovative Research (JETIR). 2021, 8(5)
Andrographis paniculata là một loài cây thuốc mới đầy hứa hẹn để điều trị nhiều bệnh bao gồm HIV-AIDS và hàng loạt các triệu chứng liên quan đến các rối loạn tự miễn dịch và nó đã được sử dụng trong bệnh lỵ do vi khuẩn, cầm tiêu chảy, trong các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp trên, viêm amidan, viêm họng, viêm thanh quản, viêm phổi, lao và viêm bể thận. Do có đặc tính chữa bệnh cao nên nó có nhu cầu thị trường cao trong Y học vi lượng đồng căn cũng như trong Y học Ayurveda. Trong tự nhiên nhân giống cây này thường kém và quần thể của chúng đang suy giảm với tốc độ đáng báo động. Hơn nữa, sự phụ thuộc ngày càng tăng vào việc sử dụng các loại cây thuốc trong xã hội công nghiệp đã được ghi nhận do việc chiết xuất và phát triển một số loại thuốc và thuốc hóa trị liệu từ những loại cây này cũng như từ các bài thuốc cổ truyền. Các phương pháp tiếp cận có hệ thống đã được thực hiện để tạo ra nhiều chồi từ đoạn cây con cụ thể là đốt lá mầm và đốt trên lá mầm của cây Andrographis paniculata. Trong Andrographis paniculata BAP 13,31µM/lit với IAA. (20 chồi dài 33,5mm) từ các đoạn cây con. Trong số tất cả các nồng độ BAP với IAA đã thử, nồng độ 13,31µM/lit BAP+5,70µM/lit IAA được tìm thấy là tốt nhất để nhân nhanh chồi cây Andrographis paniculata. Việc bổ sung PVP (100 mg/lít), axit ascorbic (50 mg/lít) và axit citric (100 mg/lít) đã kiểm soát được hiện tượng hóa nâu của môi trường nuôi cấy.
Lê Thị Quỳnh Nga
BẢO TỒN CHUYỂN VỊ LOÀI CÂY THUỐC CÓ NGUY CƠ TUYỆT CHỦNG ANDROGRAPHIS PANICULATA BẰNG NUÔI CẤY MÔ THỰC VẬT
Monika M.A. và cs.
Journal of Horticultural Sciences. 2022; 17(2)
Quy trình nhân nhanh in vitro cây xuyên tâm liên (Andrographis paniculata) hiệu quả và nhanh chóng đã được thiết lập bằng nghiên cứu các yếu tố như sự kết hợp của các chất điều hòa sinh trưởng thực vật và các loại mẫu cấy (thân, lá và gân giữa). Để tìm ra môi trường hiệu quả cho việc tạo mô sẹo và tái sinh chồi, các mẫu cấy khác nhau của A. paniculata đã được nuôi cấy trên môi trường MS được làm giàu với các nồng độ khác nhau của 6-benzylaminopurine (BA), axit α-naphthalene acetic (NAA) và axit 2, 4-dichlorophenoxy acetic (2,4-D). Mẫu cấy thân được ghi nhận phản ứng tốt hơn mẫu lá và gân giữa trong cả quá trình tạo mô sẹo và tái sinh chồi. Tỷ lệ tạo mô sẹo từ mẫu thân, lá và gân giữa lần lượt là 26,67 - 100%, 20 - 93,33% và 13,33 - 73,33%. Các mô sẹo thu được từ mẫu gân giữa không được sử dụng trong quá trình tạo chồi vì kích thước của chúng nhỏ. Mẫu cấy thân thể hiện tỷ lệ tái sinh chồi đạt cao nhất là 73,33% khi so sánh với mẫu lá (60%). Sự hình thành mô sẹo (100%) và tái sinh chồi (73,33%) cao nhất từ mẫu cấy thân trong môi trường MS bổ sung 0,5 mg/L NAA và 2,0 mg/L BA và môi trường ½ MS bổ sung lần lượt 0,1 mg/L NAA và 3,0 mg/L BA. Sự tái sinh chồi cao nhất từ mẫu cấy thân có thể là do sự hiện diện của nhiều tế bào nhu mô hoạt động hơn so với mẫu cấy từ lá. Môi trường ½ MS bổ sung 2,0 mg/L IBA được coi là môi trường tạo rễ tốt nhất vì cho tỷ lệ ra rễ cao nhất (93,33%). Sau khi thích nghi, cây được chuyển ra đồng ruộng và tương đồng với cây mẹ.
SỰ SẢN XUẤT ANDROGRAPHOLIDE TRONG NUÔI CẤY IN VITRO CÂY XUYÊN TÂM LIÊN (ANDROGRAPHIS PANICA (BURM.F.) NEES)
Duangporn Premjet và cs.
Asia-Pacific Journal of Science and Technology. 2023, 29(05)
Xuyên tâm liên có tên khoa học là Andrographis paniculata (Burm.f.) Nees là một loài cây thuốc của Thái Lan đã được sử dụng để điều trị Covid19 như một loại thuốc thay thế. Các lactone diterpene có tác dụng dược lý như andrographolide tích lũy trong lá của loài. Nghiên cứu này đã khảo sát tác động kết hợp của axit 1-naphthaleneacetic (NAA) với nồng độ 0, 0.5 và 1.0 mg/L và 6-benzyladenine (6-BA) với nồng độ 0, 5, và 10 mg/L đối với sự phát triển và tích lũy andrographolide trong cây A. paniculata in vitro sử dụng môi trường bán rắn Murashige và Skoog, 1962 (MS). Kết quả cho thấy các mẫu chồi bên có tỷ lệ sống sót từ 33 đến 73%, với sự phát triển mô sẹo tốt khi nuôi cấy trên môi trường MS chứa BA 10 mg/L và môi trường MS bổ sung BA 10 mg/L và NAA 1.0 mg/L. Các cây con in vitro có tỷ lệ sống sót 100%, sau 30 ngày trồng thu được cây có lá và rễ dài từ 5-10 cm. Cây con được nhân giống bằng phương pháp in vitro chứa andrographolide đạt 1.14% trọng lượng khô, trong khi cây trồng trong đất sau 120 ngày có hàm lượng andrographolide đạt 1.5% trọng lượng khô. Tuy nhiên, andrographolide không được phát hiện trong mô sẹo trong các công thức xử lý với BA, NAA riêng lẻ hoặc kết hợp. Các cây giống in vitro có lá và rễ dài từ 5-10 cm trong thời gian nuôi cấy 30 ngày và tích lũy andrographolide đạt 1.14% trọng lượng khô.
GIÁM ĐỊNH BẰNG MÃ VẠCH DNA VÀ CẢI THIỆN NĂNG SUẤT ANDROGRAPHOLIDE TRONG CÂY ANDROGRAPHIS PANICULATA
B. A. Oseni và cs.
Nig. J. Pharm. Res. 2020, 16 (2): 117- 125
Tổng quan: Andrographolide, hợp chất có hoạt tính sinh học đóng vai trò chính trong hầu hết các hoạt tính dược lý như chống ung thư, kháng khuẩn được phát hiện ở cây Andrographis paniculata với số lượng nhỏ. Ngoài ra, chi Andrographis có khoảng 28 loài, hầu hết không có giá trị làm thuốc. Mã vạch axit deoxyribonucleic (DNA) được sử dụng để định danh và giám định thực vật.
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm giám định Andrographis paniculata bằng mã vạch DNA và cải thiện năng suất andrographolide thông qua xử lý bằng enzym.
Vật liệu và phương pháp: DNA của cây Andrographis được tách chiết bằng bộ kit Qiagen. Các vùng mã vạch DNA psbA-trnH và rbcL được khuếch đại bằng phản ứng chuỗi polymerase (PCR). Sự hiện diện của các vùng được khuếch đại được xác nhận bằng điện di gel và các vùng khuếch đại được giải trình tự. Tìm kiếm BLAST N đã được tiến hành trên DNA đã giải trình tự. Các thành phần trong lá khô A. paniculata được tách chiết bằng methanol, sau đó xử lý và không xử lý bằng β glucosidase. Dịch chiết được sấy khô và phân tách bằng etyl axetat. Phân đoạn etyl axetat được cô đặc và hòa tan trong methanol. Hàm lượng andrographolide được xác định bằng sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC).
Kết quả: Các vùng DNA psbA-trnH và rbcL đã được khuếch đại thành công với kích thước lần lượt 358 bp và 604 bp. Trình tự mã vạch DNA thu được tương đồng với gen psbA-trnH (97%) và rbcL (99%) của mẫu tiêu bản A. paniculata MICET P00101. Năng suất andrographolide trung bình lần lượt là 9,4±0,11mg/g và 8,9±0,13mg/g trọng lượng khô cho nhóm thí nghiệm và nhóm đối chứng; phân tích thống kê ở p = 0,05 cho thấy sự khác biệt đáng kể.
Kết luận: Cây Andrographis dùng trong nghiên cứu này được xác nhận là Andrographis paniculata, xử lý bằng enzym làm tăng năng suất andrographolide từ cây.
Đinh Thanh Giảng
ĐẶC ĐIỂM BỘ GEN CỦA CÁC YẾU TỐ PHIÊN MÃ BZIP LIÊN QUAN ĐẾN QUÁ TRÌNH SINH TỔNG HỢP ANDROGRAPHOLIDE Ở ANDROGRAPHIS PANICULATA
Rui Guan và cs
International Journal of Biological Macromolecules 223, Part A, 31 December 2022, 1619-1631
Họ các yếu tố phiên mã basic leucine zipper (bZIP) đóng vai trò quan trọng trong nhiều quá trình sinh học ở thực vật. Andrographis paniculata (Burm.f) Nees, thuộc họ Acanthaceae, đã được sử dụng rộng rãi như một loại thảo dược truyền thống quan trọng với nhiều tác dụng dược lý như giải độc côn trùng, kháng vi-rút, chống ung thư, v.v. Tuy nhiên, chưa có báo cáo phân tích toàn diện nào về họ gen bZIP trong cây Andrographis paniculata. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã xác định được 62 bZIP trong Andrographis paniculata và nhóm chúng thành 12 phân họ thông qua phân tích cây phát sinh loài. Các bZIP trong cùng một nhóm có thành phần mô típ, cấu trúc exon-intron và phân bố miền tương tự nhau. Ngoài ra, dữ liệu RNA-seq đã cung cấp dẫn liệu tham khảo để lựa chọn các bZIP ứng viên cho việc nghiên cứu sâu hơn về chức năng. Cuối cùng, phân tích qRT-PCR cho thấy bảy ApbZIP (ApbZIP4, ApbZIP19, ApbZIP30, ApbZIP42, ApbZIP50, ApbZIP52, ApbZIP62) được biểu hiện nhiều nhất ở lá và được điều chỉnh tăng đáng kể khi xử lý với MeJA và ABA, có thể liên quan đến điều hòa sinh tổng hợp andrographolide. Những dữ liệu này mở đường cho việc làm sáng tỏ thêm chức năng của bZIP trong loài Andrographis paniculata.
Đinh Thanh giảng
SỰ ĐA DẠNG VỀ HÌNH THÁI TRONG SỐ CÁC KIỂU GEN CỦA CÂY ANDROGRAPHIS PANICULATA DỰA TRÊN CÁC ĐẶC ĐIỂM ĐƯỢC XÁC ĐỊNH CHỦ YẾU BẰNG NỀN TẢNG PHÂN TÍCH KIỂU HÌNH THÔNG LƯỢNG CAO
Supatcharee Netrphan và cs.
Genetic Resources and Crop Evolution, 2024.
DOI:10.1007/s10722-024-02301-y
Andrographis paniculata được trồng rộng rãi trên khắp Trung Quốc và Đông Nam Á do lợi ích điều trị của nó trong y học cổ truyền đối với nhiều loại bệnh. Loài này rất giàu chất chuyển hóa có hoạt tính sinh học, đặc biệt là andrographolide, có đặc tính chống viêm và kháng khuẩn đáng kể. Việc sản xuất andrographolide hiệu quả trên quy mô lớn đòi hỏi phải hiểu biết toàn diện về sự đa dạng về di truyền và kiểu hình của A. paniculata. Nghiên cứu này đã mô tả 38 mẫu giống A. paniculata của Thái Lan cho 15 đặc điểm, bao gồm số ngày ra hoa, sinh khối, hàm lượng andrographolide và 10 đặc điểm hình thái được đo bằng các nền tảng kiểu hình thông lượng cao (HTPP). Sử dụng cả phép đo thông thường và HTPP, nghiên cứu này cho thấy sự khác nhau đáng kể về kiểu hình giữa các mẫu giống này, đặc biệt là về số ngày ra hoa, chiều cao cây và hình dạng tán cây. Hàm lượng andrographolide dao động từ 37,4 đến 51,0 mg g-1 trọng lượng khô, cho thấy sự đa dạng đáng kể của hợp chất có hoạt tính sinh học. Phân tích cụm dựa trên dữ liệu kiểu hình đã phân loại các mẫu giống thành hai đến ba nhóm. Năng suất Andrographolide trên một cây có liên quan đến các đặc điểm hình thái như trọng lượng và kích thước của cây. HTPP có thể nắm bắt các đặc điểm kiến trúc thực vật phức tạp như độ chặt chẽ và độ tròn, cho thấy mối tương quan với năng suất andrographolide. Một số mẫu giống có các đặc điểm thú vị như hàm lượng andrographolide cao, sinh khối cao, sản lượng andrographolide cao trên mỗi cây, kiểu cây vòng đời ngắn đối xứng nhỏ, hàm lượng andrographolide, năng suất andrographolide cao trên mỗi cây đã được xác định. Ứng dụng HTPP tiên phong này trong nghiên cứu cây A. paniculata cung cấp những hiểu biết mới về sự đa dạng kiểu hình của loài này, do đó góp phần vào việc sử dụng và bảo tồn bền vững loài này.
Đinh Thanh Gỉang, Lê Thị Quỳnh Nga
(Nguồn tin: Viện Dược liệu)