Bản tin dược liệu

BẢN TIN DƯỢC LIỆU SỐ 5/2025: TIÊU LỐT VÀ BẠCH CẬP

I. Tiêu lốt (Piper longum L.)

RETROFRACTAMIDE C CÓ NGUỒN GỐC
TỪ PIPER LONGUM LÀM GIẢM PHÙ TAI CHUỘT
GÂY
RA BỞI XYLEN VÀ ỨC CHẾ QUÁ TRÌNH PHOSPHORYL HÓA ERK VÀ NF-ΚB
TRONG TẾ BÀO J774A.1
CẢM ỨNG BỞI LPS

Hyung Jin Lim và cs.

Molecules. 2020; 25(18):4058

Nhiều nghiên cứu đã báo cáo về các hoạt tính sinh học của retrofractamid C (RAC) từ tiêu lốt (Piper longum L.). Tuy nhiên, ít nghiên cứu đánh giá tác dụng kháng viêm của RAC. Trong nghiên cứu này, chúng tôi khảo sát tác dụng kháng viêm của RAC bằng cách sử dụng tế bào J774A.1 được cảm ứng bởi lipopolysaccharide (LPS) và mô hình phù tai chuột gây ra bởi xylen. Việc điều trị bằng RAC làm giảm sự tiết nitric oxid (NO) và prostaglandin E2 (PGE2), đồng thời ức chế sự biểu hiện protein của các enzym NO synthase cảm ứng (iNOS) và cyclooxygenase 2 (COX2). Ngoài ra, RAC còn làm giảm sản xuất interleukin-1β (IL-1β) và interleukin-6 (IL-6) do LPS gây ra trên dòng tế bào J774A.1, nhưng không ảnh hưởng đến yếu tố hoại tử khối u α (TNF-α). Trong con đường tín hiệu do LPS kích hoạt, RAC ức chế quá trình phosphoryl hóa của kinase điều hòa tín hiệu ngoại bào (ERK) và nhân tố phiên mã NF-κB, nhưng không ức chế c-Jun N-terminal kinase (JNK) hay p38. Trong mô hình phù tai chuột gây ra bởi xylen, việc điều trị bằng RAC làm giảm sự hình thành phù nề và sự thâm nhập của tế bào viêm. Kết luận, nghiên cứu này cho thấy RAC có tiềm năng mang lại tác dụng kháng viêm và có thể trở thành một loại thực phẩm chức năng triển vọng.

Trần Viễn Thông

TÁC DỤNG BẢO VỆ CỦA CHIẾT XUẤT
PIPER LONGUM ĐỐI VỚI TỔN THƯƠNG DNA,
STRESS OXY HÓA VÀ ĐỘC TÍNH GAN
- THẦN KINH DO CYCLOPHOSPHAMID GÂY RA TRÊN CHUỘT: VAI TRÒ CỦA ΓH2AX VÀ 8-OHDG

Vaishali Yadav và cs.

Frontiers in Pharmacology. 2023;14

Tổng quan: Việc xác định các chất bảo vệ gen (genoprotectants) là một chiến lược đầy hứa hẹn nhằm cải thiện sức khỏe trên người. Tiêu lốt (Piper longum L.) đã thu hút sự quan tâm khoa học nhờ những tác dụng sinh học đa dạng và giá trị sử dụng trong y học cổ truyền. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá tiềm năng ổn định bộ gen của tiêu lốt đối với tác động gây độc trên gen do cyclophosphamid gây ra.

Phương pháp: Chúng tôi áp dụng phương pháp sàng lọc dạng “phễu” với ba cấp độ đánh giá, bao gồm môi trường không tế bào, tế bào lympho máu ngoại vi và mô hình động vật. Tác dụng bảo vệ gen của chiết xuất tiêu lốt ban đầu được khảo sát trên DNA plasmid pBluescript SK(-). Tiếp theo, chiết xuất và các phân đoạn được đánh giá chống lại độc tính gen do cyclophosphamide thông qua phép thử vi nhân tế bào (cytokinesis-block micronucleus assay) và phép thử bất thường nhiễm sắc thể trên lympho bào máu ngoại vi người. Tác dụng ổn định bộ gen của chiết xuất và phân đoạn mạnh (hexan) được thử nghiệm thêm in vivo trên chuột Wistar bằng các phép thử vi nhân hồng cầu động vật có vú, phân mảnh DNA, các chỉ dấu stress oxy hóa, 8-hydroxy-2-deoxyguanosine (8-OHdG), γH2AX, cùng tổn thương mô bệnh học ở gan và hồi hải mã. Ngoài ra, nghiên cứu độc tính cấp và bán cấp cũng được tiến hành theo hướng dẫn của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) trên chuột. Thành phần hóa học của chiết xuất còn được định lượng và xác định bằng sắc ký lớp mỏng hiệu năng cao (HPTLC), sắc ký lỏng siêu hiệu năng ghép khối phổ (UPLC-MS) và sắc ký khí ghép khối phổ (GC-MS).

Kết quả: Chiết xuất ethanol từ tiêu lốt cho thấy khả năng bảo vệ DNA plasmid pBluescript SK(-) chống lại sự đứt gãy mạch do H₂O₂- gây ra. Trên tế bào lympho người, chiết xuất và phân đoạn hexane làm giảm sự hình thành vi nhân (p < 0,001) và bất thường nhiễm sắc thể (p < 0,01) do cyclophosphamid gây ra. Hơn nữa, khi được sử dụng với liều 200 mg/kg trong 28 ngày trên chuột Wistar, chiết xuất và phân đoạn này phục hồi tình trạng bất ổn bộ gen do cyclophosphamid thông qua việc giảm hình thành vi nhân và phân mảnh DNA; khôi phục cân bằng oxy hóa-khử; giảm 8-OHdG (dấu hiệu đặc trưng của tổn thương DNA do oxy hóa); giảm γH2AX (chỉ dấu của đứt gãy kép DNA); đồng thời bảo vệ gan và hồi hải mã khỏi các tổn thương mô bệnh học. Không ghi nhận dấu hiệu độc tính toàn thân ở các liều đã sử dụng. Piperin và piperlongumin được xác định là các alkaloid chính, bên cạnh sự hiện diện của flavonoid trong chiết xuất ethanol, cùng các acid béo và terpenoid trong phân đoạn hexan của tiêu lốt.

Trần Viễn Thông

HIỆU QUẢ CHỐNG VIÊM CỦA
CHIẾT XUẤT METHANOL TỪ QUẢ PIPER LONGUM L. TRÊN DÒNG ĐẠI THỰC BÀO RAW 264.7 CẢM ỨNG BỞI LIPOPOLYSACCHARID

Uyen Thi Tu Phan và cs.

Heliyon. 2024;10(4)

Tổng quan: Các loài Piper đã được nghiên cứu với nhiều hoạt tính tiềm năng như chống khối u, chống viêm và chống oxy hóa. Tuy nhiên, hoạt tính chống viêm cụ thể của chiết xuất từ quả tiêu lốt (Piper longum L.) vẫn chưa được khảo sát.

Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đánh giá tác dụng chống viêm của chiết xuất methanol quả P. longum L. (PLE) trên dòng đại thực bào RAW 264.7 của chuột được kích thích bằng lipopolysaccharide (LPS), đồng thời tìm hiểu cơ chế tác động của chúng.

Phương pháp: Thành phần hóa học của PLE được phân tích bằng sắc ký lỏng khối phổ phân giải cao (LC-HRMS). Nồng độ nitric oxid (NO), interleukin-6 (IL-6) và yếu tố hoại tử khối u alpha (TNF-α) trong dịch nuôi cấy được định lượng lần lượt bằng thử nghiệm Griess và ELISA. Biểu hiện mRNA của IL-6, TNF-α, cyclooxygenase-2 (COX-2), và nitric oxid synthase cảm ứng (iNOS) được đánh giá bằng phản ứng chuỗi polymerase định lượng thời gian thực (RT-qPCR). Ngoài ra, biểu hiện protein của COX-2, iNOS và mức phosphoryl hóa của các kinase thuộc họ MAPK, bao gồm c-Jun N-terminal kinase (JNK) và p38, được xác định bằng Western blot.

Kết quả: PLE được xác định có 66 hợp chất thuộc nhiều nhóm khác nhau như alkaloid, flavonoid, terpenoid, phenolic, lacton và acid hữu cơ. PLE ức chế sản xuất NO với IC₅₀ = 28,5 ± 0,91 μg/mL. Ngoài ra, ở nồng độ 10 - 100 μg/mL, PLE làm tăng biểu hiện protein HO-1 gấp 3 - 10 lần sau 3 giờ. PLE đồng thời làm giảm biểu hiện mRNA và protein của iNOS, COX-2, cũng như làm giảm tiết IL-6 và TNF-α thông qua điều hòa con đường tín hiệu MAPK, đặc biệt bằng cách giảm phosphoryl hóa p38 và JNK.

Kết luận: Nghiên cứu đã cung cấp hồ sơ thành phần hóa học của PLE và chứng minh rằng PLE thể hiện tác dụng chống viêm thông qua điều hòa họ MAPK, cho thấy tiềm năng trở thành ứng viên trong điều trị các bệnh viêm.

Trần Viễn Thông

TỔNG QUAN VỀ CÁC ĐẶC TÍNH KHÁNG VIRUS
VÀ ĐIỀU HÒA MIỄN DỊCH TIỀM NĂNG
CỦA PIPER LONGUM

Kanmani Subramaniam và cs.

IOP conference series: materials science and engineering. 2021; 1145(1)

Tiêu lốt (Piper longum L.), thường được gọi là Pippali, là một loài dây leo thuộc họ Piperaceae, có nguồn gốc từ vùng đông bắc Ấn Độ và dãy Western Ghats. Loài này được sử dụng phổ biến trong hệ thống y học cổ truyền và y học Ayurveda để điều trị viêm phế quản, tiêu chảy, viêm gan do virus, nhiễm trùng đường hô hấp, đau dạ dày, bệnh lý ở lách, ho, cảm lạnh và khối u. Các bài báo được lập chỉ mục trong Scopus và dữ liệu thu thập từ các cơ sở dữ liệu điện tử như ScienceDirect, PubMed đã được sử dụng để tổng hợp thông tin về Piper longum. Pippali chứa nhiều hợp chất thực vật, bao gồm alkaloid, tinh dầu, flavonoid và steroid. Các đặc tính dược lý đã được ghi nhận bao gồm tác dụng chống viêm, kháng khuẩn, diệt côn trùng, chống béo phì, kháng nấm, hạ sốt và bảo vệ tim mạch. Ngoài ra, pippali còn thể hiện nhiều hoạt tính kháng virus, giúp tăng cường hệ miễn dịch và có hiệu quả trong việc chống lại virus viêm gan B. Dược liệu này được xem là an toàn, dễ thu hái, giá rẻ và ít có tác dụng phụ. Mặc dù có nhiều bằng chứng về việc sử dụng trong y học, nhưng việc ứng dụng tiêu lốt trong điều trị các bệnh tương tự cúm virus vẫn chưa được nghiên cứu sâu rộng. Tuy vậy, nó cho thấy tiềm năng mạnh mẽ trong việc điều trị các triệu chứng như ho, cảm lạnh và sốt. Trong bối cảnh đại dịch virus corona toàn cầu, việc tìm kiếm các giải pháp thay thế vừa có hiệu quả kháng virus vừa có khả năng tăng cường miễn dịch trở nên cấp thiết. Do đó, những nghiên cứu thực nghiệm và khảo sát sâu hơn là cần thiết để đánh giá toàn diện tiềm năng to lớn của loài thực vật này.

Trần Viễn Thông

TÁC DỤNG KHÁNG KHUẨN, ỨC CHẾ
MÀNG SINH HỌC VÀ THÚC ĐẨY LÀNH VẾT THƯƠNG
CỦA RỄ PIPER LONGUM TRÊN MÔ HÌNH
CHUỘT NHIỄM STAPHYLOCOCCUS AUREUS
ĐA KHÁNG THUỐC

Gaur và cs.

Asian Pacific Journal of Tropical Biomedicine. 2025; 15(5):189-199

Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá tác dụng của hydrogel từ rễ cây tiêu lốt, Piper longum (P. longum) chống lại chủng Staphylococcus aureus (S. aureus) đa kháng thuốc (MDR) có khả năng hình thành màng sinh học thông qua các thí nghiệm in vitro, in silicoin vivo.

Phương pháp: Chiết xuất ethanol từ rễ P. longum và các hợp chất thành phần được tách bằng p-HPLC. Hoạt tính kháng khuẩn và kháng tạo màng sinh học trên S. aureus MDR (ATCC 33591) in vitro của dịch chiết và các hợp chất alkamid phân lập được đánh giá bằng phương pháp khuếch tán trên thạch và vi pha loãng trong môi trường dịch lỏng. Các phân tích in silico được tiến hành nhằm khảo sát sự tương tác của các hợp chất alkamid với ba protein đích gồm glycogen synthase kinase 3β (GSK3β), matrix metalloproteinase-8 (MMP-8) và inducible nitric oxide synthase (iNOS). Ngoài ra, tác dụng chữa lành vết thương của hydrogel chứa chiết xuất rễ P. longum ở nồng độ 2% và 5% (w/v) được đánh giá trên mô hình chuột.

Kết quả: Chiết xuất ethanol từ rễ P. longum và các hợp chất phân lập thể hiện hoạt tính kháng khuẩn in vitro với nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) từ 50 μg/mL đến 700 μg/mL, đồng thời làm giảm đáng kể sự hình thành màng sinh học trên S. aureus MDR. Trong số đó, hợp chất piperdardine phân lập từ rễ P. longum đạt điểm docking phân tử tốt nhất (-9,7; -9,8 và -9,2 kcal/mol) với các protein đích GSK3β, MMP-8 và iNOS. Thử nghiệm in vivo cho thấy hydrogel P. longum làm giảm đáng kể số lượng đơn vị hình thành khuẩn lạc (P < 0,05). Nhóm điều trị bằng hydrogel P. longum 5% (w/v) thể hiện hoạt tính chữa lành vết thương vượt trội, với tỷ lệ co rút vết thương đạt 99,34% vào ngày thứ 14. Phân tích mô bệnh học cũng xác nhận sự tái biểu mô hóa tăng cường và tình trạng viêm giảm ở chuột được điều trị bằng hydrogel P. longum 5%.

Kết luận: Chiết xuất rễ P. longum có tiềm năng dược lý như một tác nhân kháng khuẩn và thúc đẩy lành vết thương, cần có thêm các nghiên cứu để xác nhận hiệu quả và khả năng ứng dụng lâm sàng.

Trần Viễn Thông

THẨM ĐỊNH VÀ ĐÁNH GIÁ ĐỘ XANH CỦA PHƯƠNG PHÁP HPTLC KẾT HỢP ĐO MẬT ĐỘ QUANG ĐỂ ĐỊNH LƯỢNG ĐỒNG THỜI SÁU hoạt chất ALKAMIDE TRONG RỄ TIÊU LỐT (PIPER LONGUM LINN.)

Pooja Gaur và cs.

Microchemical Journal. 2023 August; 191:108766

Sự tương đồng đáng kể về cấu trúc của các alkamid đặt ra một thách thức trong quá trình tách sắc ký để định lượng đồng thời các hoạt chất alkaloid trong phụ phẩm nông nghiệp của Tiêu lốt (Piper longum L.). Do đó, một phương pháp mới sử dụng HPTLC đã được ứng dụng để định lượng đồng thời sáu alkamid, cụ thể là pellitorin (1), piperanin (2), piperin (3), piperdardin (4), piplartin (5) và piperlonguminin (6) trong P. longum. Phương pháp PRISMA đã được áp dụng để tối ưu hóa sự phân tách trên bản mỏng silica gel 60 F254, với hệ pha động là n-hexan-dichloroethan-diethylamin (7,8: 1,2: 0,5, v/v/v). Ngoài Rf và quan sát màu sắc, tính đặc hiệu của phương pháp đã được chứng minh bằng kỹ thuật so phổ UV và phổ khối. Phương pháp này phù hợp với định luật Beer trong phạm vi 1–5 µg/dải. Giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng nằm trong khoảng 0,073–0,531 và 0,243–0,769 µg đối với pellitorin (1), piperanin (2), piperin (3), piperdardin (4), piplartin (5) và piperlonguminin (6). Phương pháp đề xuất đã được áp dụng thành công để xác định sáu alkamid với độ thu hồi trung bình nằm trong khoảng từ 98,81 đến 100,05%, độ chính xác trong ngày và giữa các ngày với độ lệch chuẩn tương đối dưới 2%. Hơn nữa, độ xanh đã được nghiên cứu bằng cách sử dụng các chỉ số NEMI (National Environmental Methods Index), ESA (Eco-scale Assessment), GAPI (Green Analytical Procedure Index) và AGREE (Analytical GREEness metric) cho thấy phương pháp HPTLC này thân thiện với môi trường và tiết kiệm năng lượng. Đây là báo cáo đầu tiên về phương pháp phân tích hỗ trợ định lượng chính xác, thông lượng cao và định lượng đồng thời sáu alkamid (1–6) trong rễ tiêu lốt với ứng dụng trong thực phẩm và dược phẩm.

Nguyễn Xuân Lan

PHƯƠNG PHÁP HPTLC HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CÔNG THỨC VÀ KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG các chế phẩm VIÊN NÉN TỪ cao chiết quả tiêu lốt (PIPER LONGUM L.)

Kunjan và cs.

Natural Product Research. 2024 October; 1-9

Cao chiết cồn quả tiêu lốt (Piper longum L.) được báo cáo là có tác dụng chống tăng huyết áp, phần lớn là do sự hiện diện của các ankaloid như piperin, piperlongumin, piperlonguminin và pipernonalin. Một phương pháp HPTLC nhạy và đặc hiệu đã được phát triển và thẩm định để định lượng đồng thời piperin, piperlongumin và piperlonguminin trong cao chiết quả nhằm cung cấp phương pháp phân tích hỗ trợ trong quá trình phát triển công thức cũng như là công cụ kiểm soát chất lượng cho công thức đã được tối ưu hóa. Phương pháp phát triển đã được thẩm định theo ICH Q2 (R1) và đạt độ chính xác, độ đúng, độ nhạy, độ đặc hiệu và độ thô để định lượng piperin, piperlongumin và piperlonguminin. Phương pháp đã được áp dụng thành công để định lượng bột cao khô và công thức tối ưu của viên nén về hàm lượng piperin, piperlongumin và piperlonguminin cũng như để nghiên cứu dữ liệu độ hòa tan của các lô chế phẩm trong giai đoạn phát triển.

Nguyễn Xuân Lan, Bùi Khắc Hiếu

PHÂN TÍCH TOÀN DIỆN ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP CHIẾT XUẤT ĐẾN CÁC HỢP CHẤT HỮU CƠ BAY HƠI VÀ DỮ LIỆU HƯƠNG VỊ CỦA CÁC GIỐNG PIPER NIGRUM L.

Zhang và cs.

Food Chemistry. 2025; 492(2):145425

Nghiên cứu này so sánh ảnh hưởng của ba phương pháp chiết xuất gồm chiết siêu âm (UE), chiết Soxhlet (SE) và chưng cất hơi nước (SD) lên các hợp chất hữu cơ bay hơi (VOCs) và hồ sơ hương vị của các giống tiêu lốt, Piper nigrum L. (tiêu Việt Nam – VP; tiêu Kampot – KP; tiêu Dapo – DP). Bằng cách sử dụng GC–MS và UPLC, kết quả cho thấy UE giữ lại được sự đa dạng VOCs và độ phức tạp các hợp chất thơm tốt nhất, trong khi SE đạt hiệu quả cao nhất về hàm lượng piperin (ví dụ: 4551,35 mg/100 g ở giống VP). Ngược lại, SD làm giảm sự khác biệt hương vị giữa các giống, khiến đặc tính bay hơi trở nên đồng nhất hơn. Mặc dù có sự khác biệt về phương pháp, các đặc điểm hương thơm chính của từng giống tiêu lốt vẫn được nhận diện rõ ràng. Đáng chú ý, KP xử lý bằng UE cho hàm lượng terpen cao nhất (2503,22 mg/100 g), nhấn mạnh tiềm năng hương thơm nổi bật của giống này. Dữ liệu GC–MS còn cho phép phân loại chính xác hồ sơ hương vị dựa trên phương pháp chiết xuất bằng phân tích phân biệt bình phương tối thiểu trực giao (OPLS-DA). Tổng cộng có 9 hợp chất thơm được xác định dựa trên giá trị hoạt tính mùi (OAV) và chỉ số tầm quan trọng trong mô hình (VIP). Nghiên cứu này góp phần làm rõ sự khác biệt hương vị do phương pháp chiết xuất tạo ra, đặc điểm VOCs của các giống tiêu lốt, đồng thời định hướng cho chiến lược phát triển sản phẩm từ tiêu lốt.

Đặng Đức Huy

XÂY DỰNG VÀ THẨM ĐỊNH PHƯƠNG PHÁP SẮC KÝ LỚP MỎNG HIỆU NĂNG CAO ĐỂ ĐỊNH LƯỢNG PIPERIN TRONG CÁC DỊCH CHIẾT KHÁC NHAU CỦA TIÊU LỐT (PIPER LONGUM L.) VÀ ĐÁNH GIÁ HOẠT TÍNH CHỐNG OXY HÓA

Isha Gupta và cs.

Journal of Planar Chromatography – Modern TLC. 2023; 36(2-3):147155

Một phương pháp sắc ký lớp mỏng hiệu năng cao (HPTLC) có tính chọn lọc, đơn giản và nhạy đã được xây dựng và thẩm định nhằm mục đích định tính và định lượng hoạt chất piperin trong các dịch chiết khác nhau từ cây tiêu lốt (Piper longum L.). Hệ dung môi khai triển aceton-toluen (3:7, v/v) được sử dụng để đạt được sự tách vết tối ưu. Định lượng bằng phương pháp đo mật độ quang được tiến hành tại bước sóng 343 nm. Khoảng tuyến tính được xác định trong khoảng 0,2–1,0 μg cho mỗi điểm. Kết quả phân tích cho thấy dịch chiết ethanol của tiêu lốt chứa hàm lượng piperin cao hơn so với các dịch chiết bằng dimethylformamid (DMF), aceton và dimethyl sulfoxid (DMSO). Phương pháp cũng đã được thẩm định về độ bền, độ đúng, độ chính xác, tính đặc hiệu và tính tuyến tính. Bên cạnh đó, hoạt tính chống oxy hóa của các dịch chiết tiêu lốt được đánh giá bằng phương pháp 1,1-diphenyl-2-picrylhydrazyl (DPPH), trong đó dịch chiết ethanol thể hiện tiềm năng chống oxy hóa mạnh nhất với khả năng ức chế 55,26%.

Lê Huỳnh Thanh Như

TÁC DỤNG CHỐNG VIÊM VÀ GÂY ĐỘC TẾ BÀO TRÊN CÁC DÒNG TẾ BÀO UNG THƯ BUỒNG TRỨNG BỞI CÁC ALKALOID AMIDE VÀ ESTER PIPERIC ĐƯỢC PHÂN LẬP TỪ QUẢ PIPER LONGUM: ĐÁNH GIÁ HOẠT TÍNH IN VITRO VÀ MÔ PHỎNG TƯƠNG TÁC PHÂN TỬ

Nguyen Viet Phong và cs.

Bioorganic Chemistry. 2022 November; 128:106072

Ba alkaloid amid mới, piperlongumamide D–F (14, 1932); một piperic este mới, piperlongumester A (45); và hai hợp chất tự nhiên mới, methyl (2E,4Z)-5-(1,3-benzodioxol-5-yl)penta-2,4-dienoate (46) và este trans-piperolein B (47), cùng với 41 hợp chất đã biết đã được phân lập từ quả tiêu lốt (Piper longum L.). Cấu trúc hóa học của chúng được xác định trên cơ sở phân tích dữ liệu phổ bao gồm khối phổ, dữ liệu NMR 1D và 2D. Các tác dụng chống viêm và gây độc tế bào của tất cả các hợp chất đã phân lập (147) đã được đánh giá. Hợp chất 3, 619 ức chế sản xuất NO với giá trị IC50 lần lượt là 16,1 ± 0,94, 14,5 ± 0,57 và 27,3 ± 1,11 μM, trong khi hợp chất 1 thể hiện hoạt tính gây độc tế bào mạnh đối với ba dòng tế bào ung thư buồng trứng A2780, TOV-112D và SK-OV3, với giá trị IC50 lần lượt là 6,7 ± 0,77, 5,8 ± 0,29 và 48,3 ± 0,40 μM. Mô phỏng ghép nối phân tử đã được thực hiện để xác định cơ chế tương tác và liên kết của các chất chuyển hóa hoạt động này với các protein liên quan đến viêm và ung thư.

Đỗ Hoàng Anh

HOẠT TÍNH ĐẢO NGƯỢC KHÁNG SINH CỦA CHIẾT XUẤT QUẢ TIÊU LỐT (PIPER LONGUM) CHỐNG LẠI KIỂU HÌNH ĐA KHÁNG THUỐC CỦA TỤ CẦU VÀNG (STAPHYLOCOCCUS AUREUS)

Maryam và cs.

Microbiology and Biotechnology Letter. 2023 November; 51(4):432-440

Việc sử dụng kháng sinh không hợp lý và thiếu cân nhắc, việc dễ dàng mua thuốc không kê đơn ở các nước đang phát triển, và việc thiếu các chính sách quản lý sử dụng kháng sinh trong nông nghiệp, chăn nuôi và con người, đã dẫn đến sự phát triển của vi khuẩn đa kháng thuốc (MDR). Việc sử dụng thảo dược có thể được xem xét như một giải pháp thay thế, tác động trên hậu quả của vi khuẩn kháng thuốc. Chúng tôi đã thử nghiệm chiết xuất quả tiêu lốt (Piper longum L.) như một sản phẩm tự nhiên mới, có tác dụng đảo ngược tình trạng kháng kháng sinh. Sáu cao chiết của quả tiêu lốt (P. longum) đã được sử dụng để chống lại một chủng vi khuẩn Staphylococcus aureus đa kháng thuốc phân lập trên lâm sàng. Phương pháp đĩa thạch thử nghiệm độ nhạy cảm với kháng sinh đã được sử dụng trong phân tích đảo ngược tình trạng kháng kháng sinh. Ngoài cefoxitin và erythromycin, tất cả các kháng sinh khác sử dụng (lincosamide [clindamycin], quinolone [levofloxacin và ciprofloxacin], và aminoglycoside [amikacin và gentamicin]) đều được tăng cường tác dụng  bởi chiết xuất P. longum. Các chiết xuất cho thấy tác dụng hiệp đồng lớn nhất với kháng sinh là EAPL (phân đoạn ethyl acetate của P. longum), n-BPL (phân đoạn n-butanol của P. longum) và MPL (cao methanol của P. longum). Kết quả nghiên cứu này cho thấy chiết xuất P. longum có khả năng tăng hiệu quả của các nhóm kháng sinh khác nhau và đảo ngược tình trạng kháng thuốc của chúng. Tuy nhiên, cần có các nghiên cứu trong tương lai để làm sáng tỏ các cơ chế phân tử đằng sau tác dụng hiệp đồng giữa kháng sinh và các hợp chất thực vật, đồng thời xác định các hoạt chất của P. longum chịu trách nhiệm cho tác dụng hiệp đồng trong S. aureus.

Đỗ Hoàng Anh

TÁC DỤNG CHỐNG ĐÁI THÁO ĐƯỜNG VÀ CƠ CHẾ PHÂN TỬ CỦA CÁC AMID ALKALOID TỪ PIPER LONGUM DỰA TRÊN DƯỢC LÝ MẠNG TÍCH HỢP VỚI CÁC XÉT NGHIỆM TẾ BÀO

Guang và cs.

Chemistry & Biodiversity. 2022; 20(1):e202200904

Tiêu lốt (Piper longum L.) là một loại gia vị và thuốc y học cổ truyền nổi tiếng. Người ta đã phát hiện ra rằng P. longum có hoạt tính chống đái tháo đường, nhưng có rất ít thông tin về thành phần hóa học và cơ chế tác dụng. Trong nghiên cứu này, retrofractamide A (1) và C (2) được phân lập từ P. longum cho thấy hoạt tính ức chế mạnh đối với PTP1B. Do đó, cơ chế tiềm năng đã được dự đoán bằng dược lý mạng và ghép nối phân tử. PI3K/AKT đã được tìm thấy là con đường đáng chú ý nhất chống lại bệnh đái tháo đường tuýp 2 (T2DM), và AKT1 và GSK3β đã được ghi nhận là hai mục tiêu cốt lõi hàng đầu của retrofractamide A (1) và C (2). Kết quả ghép nối phân tử cho thấy ái lực liên kết mạnh giữa các hợp chất retrofractamide A (1) và C (2) với AKT1 và GSK3β. Ngoài ra, các thí nghiệm với mô hình tế bào L6 đã được tiến hành để chứng minh thêm các dự đoán trên. Kết quả cho thấy retrofractamide A (1) và C (2) có tác dụng chống đái tháo đường thông qua kích hoạt con đường PI3K/AKT và thúc đẩy quá trình tiêu thụ glucose, dung nạp glucose, tổng hợp glycogen và đường phân.

Đỗ Hoàng Anh

CÁC ALKALOID TỪ PIPER LONGUM THỂ HIỆN HOẠT TÍNH KHÁNG VIÊM VÀ TÁC DỤNG HIỆP ĐỒNG VỚI CÁC TÁC NHÂN HÓA TRỊ LIỆU ỨC CHẾ CÁC TẾ BÀO UNG THƯ CỔ TỬ CUNG

Qian Wan và cs.

Journal of Agricultural and Food Chemistry. 2023;  71(27):10349-10360

Tiêu lốt (Piper longum L.) được trồng rộng rãi để làm thực phẩm, thuốc và sử dụng cho các mục đích khác ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Mười sáu hợp chất bao gồm chín amide alcaloid mới đã được phân lập từ rễ của P. longum. Cấu trúc của các hợp chất này được xác định bằng dữ liệu quang phổ. Tất cả các hợp chất đều cho thấy tác dụng kháng viêm (IC50 = 1,90 ± 0,68-40,22 ± 0,45 μM) tốt hơn so với indomethacin (IC50 = 52,88 ± 3,56 μM). Trong số các hợp chất phân lập được, năm amid alkaloid dimeric thể hiện tác dụng hiệp đồng với ba loại thuốc hóa trị liệu (paclitaxel, adriamycin hoặc vincristine) chống lại các tế bào ung thư cổ tử cung. Hơn nữa, các amid alkaloid dimeric này cũng tăng cường hiệu quả của paclitaxel trên các tế bào ung thư cổ tử cung kháng paclitaxel. Việc kết hợp điều trị một trong những amid alkaloid dimeric này và paclitaxel thúc đẩy quá trình apoptosis của tế bào ung thư, liên quan đến con đường truyền tín hiệu Src/ERK/STAT3.

 Đỗ Hoàng Anh

CÁC ĐỒNG PHÂN QUANG HỌC ALKALOID AMID DIMERIC TỪ PIPER LONGUM L. CÓ TÁC DỤNG KHÁNG VIÊM VÀ CHỐNG ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

Guanghui Gou và cs.

Journal of Agricultural and Food Chemistry. 2025 March; 73(11):6955-6969

Quả của loài tiêu lốt (Piper longum L.) (họ Hồ tiêu) được sử dụng phổ biến như một loại gia vị trong các nền ẩm thực khác nhau, nổi tiếng với thành phần dinh dưỡng phong phú và các đặc tính dược liệu tiềm năng. Trong nghiên cứu này, một chiến lược khử lặp (dereplication: sàng lọc thêm để tìm ra các đặc điểm riêng biệt) dựa trên mạng lưới phân tử đã được sử dụng để phân lập 12 đồng phân quang học alkaloid amid dimeric (112) từ quả P. longum, bao gồm tám cặp dimer khung cyclobutan (1–8) và bốn cặp dimer khung cyclohexen (912). Đáng chú ý, năm cặp dimer khung  cyclobutan, cụ thể là piperlongramid E–I (15), và một cặp dimer khung cyclohexen, piperlongramid J (9), đã được xác định là các hợp chất mới. Cấu trúc của các hợp chất này được làm sáng tỏ thông qua các dữ liệu quang phổ, tính toán phổ lưỡng sắc tròn điện tử (ECD) và khúc xạ tia X. Ngoài ra, các hợp chất này lần đầu tiên được phân lập dựa trên phương pháp phân giải quang học. Sàng lọc hoạt tính sinh học in vitro cho thấy các hợp chất (+)-10, (-)-10 và (+)-3 thể hiện hoạt tính kháng viêm đáng kể trên mô hình đại thực bào RAW 264.7 được cảm ứng bởi LPS, với giá trị IC50 lần lượt là 23,42 ± 1,04, 32,72 ± 0,54 và 33,52 ± 1,75 μM. Hơn nữa, hợp chất (+)-3 cũng thể hiện hoạt tính ức chế α-glucosidase đáng kể với IC50 là 11,69 ± 0,91 μM. Các hợp chất (+)-9, (+)-7 và (−)-9 thể hiện hoạt tính ức chế PTP1B đầy hứa hẹn với giá trị IC50 lần lượt là 3,30 ± 0,09, 4,30 ± 0,18 và 4,37 ± 0,37 μM, cho thấy tiềm năng chống đái tháo đường của các hợp chất này. Nghiên cứu đã nhấn mạnh những ứng dụng đầy hứa hẹn của các alkaloid amid dimeric này trong việc phát triển dược phẩm và thực phẩm chức năng, qua đó mở rộng tiềm năng cải thiện sức khỏe của quả tiêu lốt.

Lê Hồng Vân Anh

CAO CHIẾT ETHANOL TỪ QUẢ PIPER LONGUM CẢI THIỆN HOẠT TÍNH CHỐNG LOẠN THẦN VÀ TÁC DỤNG LÊN BIỂU HIỆN TNF – α TẠI VÙNG HỒI HẢI MÃ CỦA CHUỘT

Spoorthi N. và cs.

Research Journal of Pharmacy and Technology. 2024 September; 17(9):4214-4220

Mục tiêu của nghiên cứu hiện tại là nhằm đánh giá hoạt tính chống loạn thần của cao chiết ethanol từ quả tiêu lốt (Piper longum L.) và tác dụng lên biểu hiện TNF-α tại vùng hồi hải mã của chuột. Vật liệu và phương pháp: Quả được thu hái, sấy khô và nghiền thành bột. Các phân đoạn thu được bằng cách chiết dược liệu với ethanol 98% bằng thiết bị Soxhlet. Nghiên cứu đã khảo sát sơ bộ thành phần hóa học có trong cao chiết. Hai liều cao chiết (200 và 400 mg/kg) đã được sử dụng để nghiên cứu. Hoạt tính chống loạn thần được đánh giá trên chuột bị gây loạn thần thông qua thiết bị leo cột Cook, thiết bị đo quang động và mô hình môi trường mở. Ngoài ra, các nghiên cứu mô bệnh học của não và gan cũng như các nghiên cứu hóa mô miễn dịch về biểu hiện TNF-α đã được thực hiện. Kết quả và thảo luận: Cao chiết chứa các thành phần hóa học bao gồm alkaloid, flavonoid, các hợp chất phenolic, saponin, steroid, tannin và tinh bột. Cao chiết này làm tăng đáng kể tiềm thời để chuột leo lên cột và làm giảm vận động tự nhiên của chuột trên các thực nghiệm Actophotometer và mô hình môi trường mở (di chuyển qua lại, hành vi tự khám phá, đánh hơi và chải lông, v.v.). Cao chiết tiêu lốt (Piper longum L.) cũng làm giảm đáng kể biểu hiện TNF-α ở vùng hồi hải mã. Nghiên cứu mô bệnh học não chuột cho thấy sự phục hồi của các tế bào khi được điều trị bằng cao P. longum (liều 400 mg/kg) trong khi đó nghiên cứu mô bệnh học gan cho thấy cao chiết này không gây độc cho gan. Kết luận: Nhìn chung, những phát hiện của nghiên cứu cho thấy cao chiết ethanol từ tiêu lốt (Piper longum L.) có hoạt tính chống loạn thần mạnh, có thể là do tác dụng điều hòa trên quá trình dẫn truyền thần kinh dopamin.

Lê Hồng Vân Anh

CÁC SESQUITERPEN TỪ QUẢ PIPER LONGUM L. VÀ HOẠT TÍNH KHÁNG VIÊM

Guanghui Gou và cs.

Fitoterapia. 2024 December; 179:106260

Quả của loài tiêu lốt (Piper longum L.) được gọi là quả tiêu dài, là một loại gia vị nổi tiếng trong ẩm thực cũng như là một loại thuốc cổ truyền. Trong nghiên cứu hiện tại, mười ba sesquiterpen bao gồm bốn hợp chất mới đã được phân lập từ quả P. longum. Hợp chất 1 là một sesquiterpen hiếm khung bisabolan methyl hóa. Các hợp chất (−)- 3(+)- 3 có khung humulan không phổ biến là một cặp đồng phân quang học được phân giải bằng HPLC chiral. Cấu hình tuyệt đối của các hợp chất 1 - 3 được xác định thông qua các phương pháp phân tích dữ liệu quang phổ, tính toán phổ 13C - NMR sử dụng phân tích xác suất DP4+ và tính toán phổ lưỡng sắc tròn điện tử ECD. Hợp chất 211 thể hiện tác dụng ức chế trung bình trên sự sản sinh NO của tế bào RAW264.7 bị cảm ứng bởi LPS với giá trị IC50 lần lượt là 30,65 ± 0,90 và 38,48 ± 2,42  μM . Những kết quả trên đã làm phong phú thêm dữ liệu về thành phần hóa học của quả P. longum, đồng thời cung cấp bằng chứng khoa học về tác dụng kháng viêm của quả P. Longum.

Lê Hồng Vân Anh

KHÁM PHÁ CÁC CHẤT ỨC CHẾ ACETYLCHOLINESTERASE TỪ PIPER LONGUM L. BẰNG CÁCH SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ SÀNG LỌC TOÀN DIỆN NĂM TRONG MỘT, PHÂN TÍCH MẪU HỆ THỐNG VÀ ĐÁNH GIÁ HOẠT TÍNH SINH HỌC IN VITROIN VIVO

Yutong Zhang và cs.

Industrial crops and product. 2025 November; 235:121654

Chúng tôi đã nghiên cứu các cơ chế và tác dụng ức chế acetylcholinesterase (AChE) của các hợp chất có hoạt tính sinh học từ loài tiêu lốt (Piper longum L.) ở nhiều cấp độ và đa hướng bằng cách sử dụng cách tiếp cận nghiên cứu đa phương diện từ siêu lọc kết hợp, ghép nối phân tử, động lực học phân tử, dược lý mạng đến các thử nghiệm in vitro trên tế bào PC12 và các thí nghiệm trên động vật. Các phương pháp phân tích ma trận và thang độ xám cho dữ liệu đa chiều đã được thiết lập để sàng lọc các hợp chất có hoạt tính, cho phép định lượng và đánh giá hoạt tính sinh học của các hợp chất. Sáu hợp chất có hoạt tính sinh học chính bao gồm brachystamid B đã được xác định. Một phương pháp phân tích khoảng cách Euclidean tích hợp với NSGA-III và phương pháp đáp ứng bề mặt đã được phát triển để tối ưu hóa quá trình chiết xuất và phân lập các hợp chất này. Một kỹ thuật sắc ký ngược dòng bốn giai đoạn đã được thiết lập để tách các hợp chất này với brachystamid B đạt độ tinh khiết 98,72% và năng suất 88,3 mg/100 g. Các thí nghiệm trên tế bào PC12 đã xác nhận rằng brachystamid B bảo vệ đáng kể các tế bào PC12, thể hiện tác dụng chống apoptosis (p  < 0,001) bằng cách tăng biểu hiện protein Bcl-2, làm giảm biểu hiện protein Bax và protein Bad (p  < 0,001). Trong các nghiên cứu trên động vật, brachystamid B cải thiện đáng kể hiệu suất hành vi (p  < 0,05), tăng nồng độ acetylcholin, cholin acetyltransferase (p  < 0,001) và giảm nồng độ acetylcholinesterase (AchE) ở các mô hình động vật (p  < 0,01). Do đó, một nghiên cứu toàn diện về cơ chế ức chế AChE đã được tiến hành thông qua việc tích hợp động lực học phân tử, dược lý mạng, tế bào PC12 và mô hình động vật. Nghiên cứu này cung cấp những hiểu biết mới về các cơ chế nhắm tới mục tiêu là AChE và tiềm năng điều trị cho bệnh Alzheimer của P. longum, đặt nền tảng vững chắc cho việc sàng lọc và đánh giá các ứng viên cho liệu pháp trị liệu từ tự nhiên.

Lê Hồng Vân Anh

CÁC ALCALOID CHIẾT XUẤT TỪ PIPER LONGUM L. VÀ HOẠT TÍNH CHỐNG VIÊM

Thi Thu Phuong Tran và cs.

Chemistry & Biodiversity. 2024 December; 21(12)

Tiêu lốt (Piper longum L.) được xem là một trong những loài quan trọng trong y học cổ truyền, thường được sử dụng chữa trị nhiều bệnh lý, và đã được xác định chứa alkaloid, flavonoid và steroid. Nghiên cứu này đã tách chiết các hợp chất từ lá P. longum và đánh giá nồng độ NO, IL-6, cũng như biểu hiện protein của iNOS và COX-2. Bên cạnh đó, phân tích docking phân tử được thực hiện để làm sáng tỏ cơ chế tác dụng kháng viêm của các hợp chất thu được. Kết quả phân tích hóa học cho thấy sự xuất hiện của một alcaloid mới, được đặt tên piperlongumine A (1), cùng mười hợp chất đã biết (2–11). Hợp chất mới (1) và hai alcaloid khác là (2E)-3-(4-hydroxy-3-methoxyphenyl)-1-(pyrrol-1-yl)propanone (7) và piperchabamide A (8) làm giảm đáng kể sản xuất NO trong tế bào RAW 264.7 kích thích bằng LPS, với giá trị IC₅₀ lần lượt là 0,97 ± 0,05 µM, 0,91 ± 0,07 µM và 1,63 ± 0,14 µM. Ở nồng độ 2 µM, hợp chất 1 ức chế khoảng 98 ± 0,64% sự sản sinh IL-6 và làm giảm mức độ protein iNOS, COX-2 lần lượt khoảng 96 và 19 lần so với nhóm LPS. Phân tích docking phân tử dự đoán các hợp chất 1, 7 8 có khả năng gắn và ức chế IL-6, TNF-α và iNOS, trong đó hợp chất 1 đạt năng lượng liên kết cao nhất là −7,09 kcal/mol. Nghiên cứu này cung cấp những hiểu biết mới cho thiết kế thuốc kháng viêm tiềm năng và mở ra hướng nghiên cứu sâu hơn.

Bùi Khắc Hiếu

TÁM ALCALOID AMIDE MỚI PHÂN LẬP TỪ PIPER LONGUM L. VÀ HOẠT TÍNH CHỐNG VIÊM

Jia Liu và cs.

Fitoterapia. 2025 October; 186

Tám alcaloid amide mới (15) cùng bốn hợp chất tự nhiên mới (6–8) đã được phân lập từ quả tiêu lốt (Piper longum L.). Cấu trúc của các hợp chất được xác định thông qua phân tích dữ liệu phổ, tính toán phổ lưỡng sắc tròn điện tử ECD và khúc xạ tia X. Dữ liệu về phổ và cấu hình không gian của hợp chất 67 được báo cáo lần đầu tiên.Trong đánh giá hoạt tính sinh học, hợp chất 7 ức chế đáng kể sự sản xuất NO ở tế bào RAW 264.7 bị kích thích bởi lipopolysaccharide (LPS), với giá trị IC₅₀ là 12,18 μM. Hợp chất này cũng ức chế biểu hiện các yếu tố viêm PGE2 và TNF-α phụ thuộc theo nồng độ. Thêm vào đó,  khả năng liên kết của hợp chất 7 với protein iNOS và COX-2 được dự đoán bằng phân tích docking phân tử.

Bùi Khắc Hiếu

MỘT PHƯƠNG PHÁP UFLC-MS/MS CÓ ĐỘ CHỌN LỌC VÀ ĐỘ NHẠY ĐỂ ĐỊNH LƯỢNG ĐỒNG THỜI NĂM ALKALOID TỪ PIPER LONGUM L. VÀ ỨNG DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU DƯỢC ĐỘNG HỌC TRÊN MÔ HÌNH CHUỘT BỊ BỆNH PARKINSON GÂY BỞI 6-OHDA

Rongrong và cs.

RSC Advances. 2019; 9:37082-37091

Các alkaloid chiết xuất từ tiêu lốt (Piper longum L.) gồm piperin (PPR), piperlongumin (PPL), Δα,β-dihydropiperlonguminin (DPPL), piperanin (PPRA) và pellitorine(PLTR) đã được chứng minh có tác dụng bảo vệ thần kinh trên mô hình chuột bị bệnh Parkinson (PD) gây bởi 6-hydroxydopamine (6-OHDA).

Trong nghiên cứu này, chúng tôi thiết lập và hiệu chuẩn một phương pháp sắc ký lỏng siêu nhanh kết hợp ion hóa phun điện tử và khối phổ kép (UFLC-ESI-MS/MS) để định lượng đồng thời năm hợp chất nêu trên trong huyết tương chuột PD. Mẫu huyết tương được xử lý qua bước kết tủa protein bằng hỗn hợp methanol/acetonitrile (1:1, v/v). Các chất phân tích và chuẩn nội được thực hiện trên cột Phenomenex Gemini C18, dùng pha động gồm acetonitrile và dung dịch acid formic 0,1% với chế độ gradient tại lưu lượng 0,5 mL/min, tổng thời gian sắc ký là 4,5 phút. Chế độ ion hóa phun điện tử dương và quan sát theo dõi phản ứng đa chuyển tiếp (MRM) với các cặp m/z được lựa chọn (286.2→201.2 cho PPR; 274.2→201.2 cho PPL; 276.2→135.1 cho DPPL; 288.2→135.1 cho PPRA; 224.1→168.2 cho PLTR; 472.1→436.1 cho chất chuẩn nội). Các chất phân tích đều cho độ tuyến tính cao (R > 0,995) trong khoảng nồng độ 0,20–5000 ng/mL. Phương pháp này được áp dụng để nghiên cứu dược động học của nhiều thành phần PPR, PPL, DPPL, PPRA và PLTR sau khi cho chuột PD uống chiết xuất alkaloid của P. longum. Kết quả cho thấy hầu hết các thông số dược động học của năm hợp chất ở chuột PD không khác biệt rõ rệt so với chuột đối chứng (sham), ngoại trừ trong các thử nghiệm đáp ứng tự nhiên (motor response tests, MRTs) có ghi nhận tác dụng đạt ý nghĩa thống kê của PPR, PPL và PLTR so với chuột đối chứng. Ngoài ra, hoạt độ enzyme chống oxy hóa superoxide dismutase (SOD) trong huyết tương có tương quan thuận với nồng độ các hợp chất PPR, PPL, DPPL, PPRA và PLTR.

Bùi Khắc Hiếu

TÁI SINH CÂY TIÊU LỐT (PIPER LONGUM L.) THÔNG QUA NUÔI CẤY IN VITRO TỪ CÁC ĐOẠN THÂN MANG MẮT

Bandana Padhan

J App Biol Biotech. 2015; 3 (05): 035-039

Nghiên cứu này tập trung vào việc phát triển một phương pháp hiệu quả để nhân giống cây tiêu lốt (Piper longum L.) từ các đoạn thân mang mắt được lấy từ cây 1 năm tuổi trồng ngoài đồng ruộng. Mẫu cấy được nuôi trên môi trường MS có bổ sung các loại hormone thực vật gồm cytokinin và auxin với nồng độ và tổ hợp khác nhau, nhằm khảo sát khả năng phát sinh chồi sơ cấp. Kết quả cho thấy môi trường MS bổ sung Kinetin 1,0 mg/l và BAP 1,5 mg/l cho hiệu quả cao nhất, với 98 % mẫu cấy hình thành chồi và đạt hệ số nhân chồi 5–6 chồi/mẫu. Cảm ứng mô sẹo được ghi nhận trên môi trường chứa BAP 1 mg/l và Kinetin 0,5 mg/l; sau 10–15 ngày cấy chuyền, mô sẹo xuất hiện các chồi non màu trắng xanh.

Đối với giai đoạn ra rễ, các chồi in vitro được cấy trên môi trường MS cơ bản có bổ sung IAA 0,5 mg/l và cho sự phát triển rễ mạnh mẽ. Cây con tái sinh được chuyển ra đất với tỷ lệ sống sót đạt 90 %. Quy trình được đề xuất có tính khả thi cao, đơn giản, nhanh và hiệu quả, thích hợp cho nhân giống in vitro tiêu lốt từ đoạn thân mang mắt cũng như đảm bảo khả năng phát triển ổn định của cây con ngoài đồng ruộng.

                                                                    Nguyễn Minh Hùng

NGHIÊN CỨU VI NHÂN GIỐNG VÀ HOẠT TÍNH CHỐNG OXY HÓA CỦA TIÊU LỐT (PIPER LONGUM - MỘT LOÀI DƯỢC LIỆU QUAN TRỌNG)

Reena Paridavà Yogamaya Dhal
Journal of Medicinal Plants Research. 2011; 5(32): 6991-6994

Nghiên cứu này trình bày một quy trình vi nhân giống hiệu quả cây tiêu lốt (Piper longum), thông qua phương pháp nhân chồi từ các đoạn thân mang mắt. Kết quả cho thấy môi trường tối ưu cho sự nhân chồi là môi trường Murashige và Skoog (MS) bổ sung benzyladenin 1 mg/L và axit indole acetic 1 mg/L. Môi trường thích hợp nhất cho sự hình thành rễ là MS bổ sung benzyladenin 1 mg/L và axit indole acetic 0,2 mg/L. Nghiên cứu này đồng thời cho thấy hoạt tính chống oxy hóa và khả năng nhân giống in vitro của tiêu lốt.

Đinh Ngọc Bảo

KỸ THUẬT MỚI CHO SỰ HÌNH THÀNH RỄ BẤT ĐỊNH VÀ NHÂN GIỐNG VÔ TÍNH LOÀI TIÊU LỐT (Piper longum L.) TỪ MẪU LÁ

Uday Chand Basak và cs
African Journal of Plant Science. 2014; 8(2):108-112

Nghiên cứu này phát triển một quy trình đơn giản nhưng hiệu quả nhằm tạo rễ và nhân giống vô tính cây tiêu lốt (Piper longum L.), một loài cây thuốc quan trọng tại Ấn Độ. Rễ và chồi được kích thích hình thành tại nửa cuống lá phía đỉnh và phía gốc bằng cách sử dụng auxin. Số lượng rễ trung bình, chiều dài rễ và tỷ lệ sống của hom lá ra rễ không bị ảnh hưởng nhiều bởi loại auxin hay kích thước mẫu lá. Kết quả tốt nhất đạt được khi xử lý phần cuống lá với axit indole-3-butyric (IBA) và axit naphthalen acetic (NAA), mỗi loại ở nồng độ 1000 ppm, với trung bình 13,40 rễ, chiều dài rễ đạt 9,65 cm, tỷ lệ ra rễ 91,69 % và tỷ lệ sống 83,33 %. Mẫu lá xử lý bằng IBA/NAA cũng cho tỷ lệ ra chồi cao nhất (83,33 %) và số chồi trung bình đạt 2 chồi/mẫu. Kết quả cho thấy tiêu lốt có thể được tái sinh từ mẫu lá, có thể không cần xử lý  hormone, hoặc để đạt hiệu quả cao hơn, sử dụng nồng độ thấp  IBA hay kết hợp IBA và NAA. Phương pháp này có thể thay thế phương pháp nhân giống bằng các vật liệu trồng truyền thống như chồi ngầm hay hom thân.

Đinh Ngọc Bảo

NHÂN GIỐNG IN VITRO VÀ ĐÁNH GIÁ TÍNH ĐỒNG NHẤT DI TRUYỀN BẰNG CHỈ THỊ RAPD, ISSR VÀ SCoT Ở CÂY TIÊU LỐT (PIPER LONGUM L.)
Chandra Bahadur Thapa và cs.
South African Journal of Botany. 2024; 172: 609-618

Tiêu lốt (Piper longum L.) là loại dược liệu quý, từ lâu đã được sử dụng để điều trị các bệnh như rối loạn tiêu hóa, mất ngủ, tiểu đường, viêm phế quản và ho. Việc khai thác quá mức đã dẫn đến sự suy giảm quần thể loài này trong tự nhiên. Nghiên cứu này nhằm xây dựng một quy trình vi nhân giống thông qua tái sinh trực tiếp từ đoạn thân mang mắt, đồng thời so sánh tính đồng nhất di truyền giữa cây mẹ và cây nuôi cấy in vitro bằng chỉ thị RAPD (Random Amplified Polymorphic DNA), ISSR (Inter Simple Sequence Repeats) và SCoT (Start Codon Targeted). Các mẫu thân được nuôi cấy trên môi trường Murashige & Skoog (MS) bổ sung α-naphthaleneacetic acid (NAA), Kinetin (KN), Thidiazuron (TDZ), 6-Benzylaminopurin (BAP) và 10 % nước dừa. Kết quả cho thấy số chồi nhiều nhất (5,33 ± 1,15) và chiều dài chồi lớn nhất (6,16 ± 0,65 cm) đạt được trên môi trường MS bổ sung 1,0 mg/L TDZ; trong khi số rễ cao nhất (7,0 ± 1,0) và chiều dài rễ lớn nhất (5,53 ± 0,35 cm) được ghi nhận trên môi trường MS bổ sung 1,0 mg/L axit indole-3-butyric (IBA). Đánh giá tính đồng nhất di truyền bằng 12 chỉ thị RAPD, ISSR và SCoT cho thấy các cây in vitro gần như hoàn toàn giống hệt cây mẹ, không xuất hiện đa hình trong phạm vi các chỉ thị được kiểm tra. Tổng cộng 12 trên 24 mồi RAPD, ISSR và SCoT đã khuếch đại được 39 locus với kích thước từ 150 đến 1400 bp. Nghiên cứu này chứng minh rằng quy trình nhân giống in vitro bằng tái sinh trực tiếp cây tiêu lốt không chỉ tạo ra cây giống giữ đúng đặc tính di truyền, mà còn có tiềm năng ứng dụng trong chọn giống đồng hợp tử, bảo tồn chuyển vị và áp dụng để nhân giống thương mại.

Phạm Lưu Kiều Mỹ

 

II. Bạch cập (Bletilla striata (Thunb.) Reichb.f.

MÀNG CẤU TRÚC HAI LỚP CARBOXYMETHYL CELLULOSE CHỨA POLYSACCHARIDE TỪ BLETILLA STRIATA NHẰM PHÒNG NGỪA DÍNH MÔ SAU PHẪU THUẬT VÀ PHỤC HỒI GÂN ACHILLES

Zhi-Yu Chen và cs.

Biomacromolecules. 2024; 25(9):5786-5797

Hiện tượng dính mô sau phẫu thuật và gân khó lành là những vấn đề lâm sàng lớn liên quan tới phẫu thuật gân. Để tránh dính mô và thúc đẩy quá trình lành gân, chúng tôi đã phát triển và tổng hợp một màng sinh học để bọc quanh vị trí phẫu thuật sau khi khâu nối gân. Màng xốp cấu trúc hai lớp gồm lớp ngoài [1,4-butanediol diglycidyl ether liên kết chéo với carboxymethyl cellulose (CX)] và lớp trong [1,4-butanediol diglycidyl ether liên kết chéo với các polysaccharid bạch cập (Bletilla striata) và carboxymethyl cellulose (CXB)]. Đã xác định được hình thái, nhóm chức năng hóa học và cấu trúc màng. Thí nghiệm in vitro cho thấy màng CX/CXB có độ an toàn sinh học và khả năng phân hủy sinh học tốt, thúc đẩy tăng sinh và di chuyển của nguyên bào sợi gân, có khả năng chống dính tế bào và tác dụng kháng viêm. Ngoài ra, trong nghiên cứu in vivo trên động vật, màng CX/CXB đã giảm hiện tượng dính mô giữa gân và tổ chức xung quanh sau phẫu thuật khá hiệu quả, cải thiện quá trình hồi phục gân, làm giảm biểu hiện các cytokine viêm tại vị trí phẫu thuật, từ đó làm tăng sức bền của gân lên 54% sau 4 tuần.

Vũ Nguyễn Minh Hoa

MIẾNG DÁN VI KIM HÒA TAN DỰA TRÊN POLYSACCHARIDE TỪ BLETILLA STRIATA TÍCH HỢP TIỂU PHÂN NANO THÚC ĐẨY MỌC TÓC

Yanyan Zhao và cs.

International Journal of Biological Macromolecules.

2025 April; 303:140336

Rụng tóc (hói đầu) là tình trạng ảnh hưởng đến hàng tỷ người trên toàn thế giới và có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, làm giảm chất lượng cuộc sống và sự tự tin của người bệnh, đặc biệt là ở thanh thiếu niên. Vì các công thức điều trị hiện tại thường phải dùng liều lập lại, sinh khả dụng thấp, tác dụng phụ đáng kể và chi phí cao, nên việc phát triển một phương pháp an toàn và hiệu quả cho điều trị rụng tóc là rất cấp thiết. Nghiên cứu này đã thiết kế một miếng dán vi kim hòa tan (TFB@NP-MNs) tích hợp hạt nano tải tofacitinib (TFB@NP). Acid hyaluronic và polysaccharid bạch cập tạo nên thân chính của vi kim, thúc đẩy giải phóng kéo dài TFB. Miếng dán này xâm nhập lớp sừng và giải phóng tofacitinib liên tục trong 48h. Kết quả in vivo khi so sánh với dạng thoa tofacitinib thương mại hằng ngày cho thấy TFB@NP-MNs làm tăng rõ rệt số lượng nang tóc, có hiệu quả mọc tóc tương đương hoặc vượt trội hơn, giảm lượng thuốc sử dụng, cải thiện hiệu quả phân phối thuốc, tác động kép kết hợp kích thích cơ học và phóng thích tofacitinib kéo dài. Những kết quả này cho thấy miếng dán vi kim này có thể là chiến lược đầy hứa hẹn cho điều trị rụng tóc trên lâm sàng, giảm tần suất dùng thuốc và nâng cao sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân.

Vũ Nguyễn Minh Hoa

NANO MICELLE CHỨA ANDROGRAPHOLIDE ĐƯỢC BỌC BẰNG POLYSACCHARIDE TỪ BLETILLA STRIATA ĐỂ PHÂN PHỐI THUỐC TỚI ĐÍCH NHẰM TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ CHỐNG UNG THƯ ĐẠI TRÀNG

Yue Zhongqun và cs.

Frontiers in Immunology. 2024 Jun; 15:1380229

Bối cảnh: Vitamin E, còn gọi là tocopherol, là một hợp chất có cấu trúc polyphenol. Dẫn xuất este của nó, vitamin E succinate (VES), thể hiện các chức năng chống ung thư và chăm sóc sức khỏe đặc biệt cùng với hiệu quả điều hòa miễn dịch. Các polysaccharide tự nhiên được chứng minh là vật liệu triển vọng cho hệ thống dẫn thuốc nano, có khả năng phân hủy sinh học và tương thích sinh học tuyệt vời. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng một loại micelle polymer polysaccharid bạch cập (Bletilla striata)- vitamin E succinate (BSP-VES) mới nhằm tăng cường khả năng nhắm đích khối u và tác dụng chống ung thư đại tràng của andrographolide (AG).

Phương pháp: Polymer BSP-VES được tổng hợp thông qua phản ứng este hóa và cấu trúc của nó được xác nhận bằng phổ 1H NMR. Hệ AG@BSP-VES được chuẩn bị bằng phương pháp thẩm tách và đánh giá tải thuốc, hiệu quả bẫy thuốc, độ ổn định và độ an toàn. Hơn nữa, khả năng nhắm đích khối u của AG@BSP-VES được đánh giá qua sự dung nạp tế bào nhắm đích và hình ảnh in vivo. Hoạt tính chống ung thư của AG@BSP-VES được đo bằng các thử nghiệm MTT, nhuộm tế bào sống/chết và thử nghiệm chống di căn (cell scratch test) trên tế bào.

Kết quả: Nghiên cứu này đã thành công trong việc nạp AG vào micelle BSP-VES (AG@BSP-VES), cho thấy độ ổn định tốt, an toàn sinh học và hiệu ứng giải phóng hoạt chất kéo dài. Thêm vào đó, AG@BSP-VES cũng thể hiện khả năng nội bào hóa tối ưu vào tế bào CT26 so với tế bào NCM460 trong điều kiện in vitro. Đồng thời, việc phân bố trúng đích micelle AG@BSP-VES vào các khối u đại tràng dưới da và tại chỗ được quan sát so với mô đại tràng bình thường in vivo trong suốt quá trình thí nghiệm (1-24 giờ). Hơn nữa, micelle AG@BSP-VES thể hiện hoạt tính chống u điển hình so với micelle BSP-VES và AG tự do.

Kết luận: Nghiên cứu cung cấp ý tưởng và phương pháp mới có ý nghĩa cho ứng dụng trong hệ thống dẫn thuốc và điều trị trúng đích ung thư đại tràng dựa trên polysaccharide tự nhiên.

Vũ Nguyễn Minh Hoa

ĐẶC TÍNH VÀ ĐÁNH GIÁ HYDROGEL PHỐI TRỘN POLYSACCHARIDE TỪ BLETILLA STRIATA /KONJAC GLUCOMANNAN CHO LIỆU PHÁP LÀM LÀNH VẾT THƯƠNG

Jin Shang và cs.

Journal of Applied Biomaterials & Functional Materials. 2023 Jan; 21:22808000231176202

 Polysaccharid từ bạch cập (Bletilla striata, BSP) hiệu quả trong việc làm lành vết thương và có ứng dụng quan trọng trong chăm sóc sức khỏe. Nghiên cứu này đã phát triển một loạt hydrogel phối trộn giữa BSP và konjac glucomannan (KGM) nhằm khắc phục hạn chế về hiệu suất cơ học do tính tan quá mức của BSP mà không làm ảnh hưởng đến hoạt tính sinh lý của BSP. Sự tương tác qua lại giữa BSP và KGM, cũng như ảnh hưởng của nồng độ KGM trên đặc tính vật lý và vi cấu trúc của hydrogel cũng đã được khám phá. Thí nghiệm cho thấy khung hydrogel chủ yếu được tạo bởi KGM; BSP phân tán đều và liên kết với KGM qua liên kết hydro, từ đó cải thiện hiệu quả các tính chất vật lý như tăng khả năng giữ nước, độ trương nở và tính cơ học. Công thức kết hợp tốt nhất là hydrogel BK2-2 (chứa 1.0% BSP và 1.0% KGM) được xác định dựa trên độ ổn định nhiệt và vi cấu trúc được chọn cho nghiên cứu tiếp theo. Thí nghiệm in vitro cho thấy công thức hydrogel BK2-2 hỗ trợ sự tăng trưởng tế bào L929 sau 72h tiếp xúc và không ghi nhận sự khác biệt so với BSP. Thí nghiệm in vivo trên động vật chỉ ra BK2-2 thúc đẩy nhanh quá trình lành vết thương so với nhóm đối chứng, tuy nhiên không ghi nhận sự khác biệt so với vật liệu gạc chỉ chứa BSP. Kết quả chứng minh rằng KGM cải thiện tính chất vật lý của vật liệu nền BSP mà không ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt tính sinh lý, hydrogel phối trộn BSP/KGM có tiềm năng ứng dụng cho phục hồi vết thương trong tương lai.

Vũ Nguyễn Minh Hoa

POLYSACCHARIDES TỪ BLETILLA STRIATA: ĐẶC TÍNH KÉP CỦA HOẠT TÍNH DƯỢC LÝ VÀ TÁ DƯỢC TRONG CHẾ PHẨM

Lan Baics.

International Journal of Biological Macromolecules. 2024; 254(1):127643

Bạch cập (Bletilla striata) đã được sử dụng qua hàng ngàn năm với các công dụng truyền thống như cầm máu, giảm sưng và thúc đẩy lành vết thương. Polysaccharide trong B. striata (BSP) là thành phần hoạt chất chính, thể hiện các chức năng sinh học như chống viêm, chống oxy hóa, chống xơ hóa, điều hòa miễn dịch, chống glycat hóa, và nhiều tác dụng khác. Ngoài ra, BSP còn sở hữu các đặc tính của một tá dược, bao gồm khả năng kết dính sinh học, phân hủy sinh học và độ an toàn sinh học, đã được sử dụng để phát triển nhiều dạng bào chế như hạt nano, vi cầu, vi kim, hydrogel, v.v. Với vai trò kép vừa là một hoạt chất dược lý vừa là tá dược, BSP ngày càng thu hút sự chú ý. Trong bài tổng quan này, các nghiên cứu gần đây liên quan đến chiết xuất và xác định hoạt tính sinh học, ứng dụng của BSP như một tá dược trong bào chế được xem xét. Đặc biệt, chúng tôi tập trung vào những tiến bộ trong việc ứng dụng BSP như một tá dược trong các chế phẩm. Tổng quan này cho rằng BSP không chỉ cần thêm nhiều nghiên cứu về cơ chế tác dụng mà còn cần được phát triển trong các dạng bào chế như hydrogel, công thức nano, kỹ thuật mô, v.v. Tổng quan này cung cấp tài liệu tham khảo hữu ích để thúc đẩy sự đổi mới và nghiên cứu chuyên sâu về BSP, đồng thời thúc đẩy việc ứng dụng các sản phẩm tự nhiên này trong công nghiệp dược phẩm.

Đỗ Thị Huyền Trang

ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ HOẠT TÍNH PREBIOTIC CỦA POLYSACCHARIDE TỪ BLETILLA STRIATA ĐƯỢC CHẾ BIẾN BẰNG PHƯƠNG PHÁP LÊN MEN MỘT BƯỚC VỚI BACILLUS LICHENIFORMIS BJ2022

Qiqi Wang và cs.

International Journal of Biological Macromolecules. 2024; 258(1):128822

Polysaccharid từ bạch cập (BP) là một trong những thành phần hoạt tính chính của loài thực vật họ Lan Bletilla striata. BP có khối lượng phân tử lớn, độ nhớt cao và khả năng khuếch tán phức tạp, gây bất lợi cho quá trình hấp thu và sử dụng trong cơ thể người. Lần đầu tiên, chúng tôi đã sản xuất polysaccharide từ Bletilla striata được lên men (FBP) với mức độ polymer hóa thấp bằng phương pháp lên men một bước sử dụng Bacillus licheniformis BJ2022. FBP là một polysaccharide trung tính với khối lượng phân tử 6790 Da. Thành phần cấu tạo bao gồm glucose và mannose với tỷ lệ mol 1:2,7. Phân tích methyl hóa và NMR cho thấy các liên kết glycosidic của FBP bao gồm mannose liên kết ß-1,4, glucose liên kết ß-1,4 và mannose liên kết ß-1,6. So với BP, FBP có độ nhớt thấp hơn và độ hòa tan cao hơn. Kết quả quan sát bằng kính hiển vi điện tử quét cho thấy bề mặt của FBP có cấu trúc xốp, dạng tổ ong. Các đặc tính lưu biến của dung dịch FBP gần với chất lỏng phi Newton. Thông qua thí nghiệm lên men in vitro, nghiên cứu đã chứng minh rằng FBP có khả năng điều chỉnh hệ vi sinh vật đường ruột của con người, đồng thời làm tăng đáng kể hàm lượng BifidobacteriumBacteroides. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy quá trình lên men với Bacillus licheniformis đã cải thiện đáng kể các đặc tính vật lý và prebiotic của FBP.

Đỗ Thị Huyền Trang

ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ HOẠT TÍNH CHỐNG OXY HÓA CỦA POLYSACCHARIDE TỪ BLETILLA STRIATA ĐƯỢC CHIẾT XUẤT BẰNG CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÁC NHAU

Haoying Chen và cs.

Carbohydrate Polymers. 2021; 266:118149

Polysaccharid từ bạch cập Bletilla striata (BSPs) có tác dụng chống viêm, giảm sưng và khử gốc tự do, với những ứng dụng quan trọng trong chuỗi thực phẩm, khoa học dược phẩm và chăm sóc sức khỏe. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã nghiên cứu toàn diện mối liên hệ giữa quá trình hình thành polysaccharide, các đặc tính lý hóa, tính chất lưu biến và hoạt tính chống oxy hóa liên quan của BSPs được chiết xuất bằng các phương pháp khác nhau. Các polysaccharide thô thu được từ B. striata bằng các phương pháp chiết nước nóng (BSPs-H), chiết hỗ trợ kiềm (BSPs-A), chiết nước sôi (BSPs-B) và chiết hỗ trợ siêu âm (BSPs-U) cho thấy sự khác biệt về khối lượng phân tử, thành phần monosaccharide, thành phần liên kết glycosidic và thế zeta, nhưng có đặc tính phổ IR và độ bền nhiệt tương đồng. Với bốn phương pháp chiết xuất nêu trên, các BSPs thu được thể hiện cấu trúc dạng lưới và dạng lớp ở các mức độ khác nhau. Tất cả các dung dịch BSPs đều thể hiện hành vi của chất lỏng phi Newton, trong đó độ nhớt giảm khi tăng tốc độ cắt. Trong số các BSPs này, BSPs-A cho thấy hoạt tính loại gốc tự do DPPH và ABTS tốt hơn, cũng như hoạt tính khử mạnh hơn, trong khi BSPs-H thể hiện hoạt tính loại bỏ gốc hydroxyl tốt hơn.

Đỗ Thị Huyền Trang

PHƯƠNG PHÁP SẤY ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀM LƯỢNG HỢP CHẤT HOẠT TÍNH SINH HỌC VÀ KHẢ NĂNG CHỐNG OXY HÓA CỦA HOA BLETILLA STRIATA (THUNB.) REICHB.F.

Jidong Lu và cs.

Industrial Crops and Products. 2021; 164:113388

Bạch cập, Bletilla striata (Thunb.) Reichb.f. là một loại cây lâu năm được sử dụng rộng rãi làm thực phẩm, thuốc và đồ trang trí. Để xác định phương pháp chế biến tối ưu và tăng cường ứng dụng của hoa B. striata, nghiên cứu này đã khảo sát ảnh hưởng của các phương pháp xử lý sấy khác nhau đến tính chất, cấu trúc, hàm lượng hợp chất hoạt tính sinh học và khả năng chống oxy hóa của hoa B. striata. Các phương pháp sấy được áp dụng trong nghiên cứu bao gồm sấy tự nhiên, sấy vi sóng, sấy khí nóng, sấy hồng ngoại, sấy chân không và sấy đông khô. Sấy vi sóng là cách nhanh nhất để hoàn thành quá trình sấy, tiếp theo là sấy hồng ngoại. Sấy đông khô có tác dụng bảo vệ màu tương đối tốt trên hoa B. striata và mức độ chuyển màu nâu thấp. So với sấy tự nhiên, hàm lượng polysaccharide giảm sau khi sấy đông khô, nhưng hàm lượng phenol tổng và anthocyanin tổng lại tăng đáng kể. Sấy tự nhiên cần nhiều thời gian và mức độ chuyển màu nâu cao. Trong điều kiện sấy tự nhiên, anthocyanin bị phân hủy gần như hoàn toàn sau thời gian sấy dài và mức độ hóa nâu cao, nhưng khả năng giữ lại flavonoid toàn phần và polysaccharide tổng cao hơn so với sấy đông khô. Chiết xuất methanol của hoa được xử lý bằng sấy tự nhiên và sấy đông khô đều cho thấy khả năng chống oxy hóa cao. Khả năng khử của nhóm sấy tự nhiên kém hơn một chút so với sấy hồng ngoại và sấy không khí nóng. Khả năng dọn gốc diammonium 2,2′ -azino-bis-(3-ethylbenzothiazoline-6-sulphonate) (ABTS), 1,1-diphenyl-2-picrylhydrazyl (DPPH) và gốc tự do hydroxyl cao hơn sau khi sấy tự nhiên. Do đó, sấy đông khô là cách tốt nhất để bảo vệ hầu hết các đặc tính, thành phần và hoạt tính sinh học của hoa B. striata. Xét đến chi phí sản xuất, nghiên cứu này khuyến nghị sấy hồng ngoại là lựa chọn thiết thực hơn cho sản xuất công nghiệp.

Nguyễn Thị Minh Phượng

BLETILLA STRIATA: TỔNG QUAN VỀ THÀNH PHẦN HÓA HỌC, TÁC DỤNG DƯỢC LÝ VÀ KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG

Jiang Sai và cs.

World Journal of Traditional Chinese Medicine. 2020; 6(4):393-407

Bạch cập, Bletilla striata thuộc họ Lan (Orchidaceae), phân bố chủ yếu ở Đông Á. Củ của B. striata đã được sử dụng trong Y học cổ truyền Trung Quốc để điều trị nhiều bệnh khác nhau, chẳng hạn như nôn ra máu, lao, loét ác tính, trĩ, chảy máu do chấn thương và nứt nẻ da. Nghiên cứu hóa thực vật trên B. striata đã xác định được 192 hợp chất đơn phân, bao gồm các bibenzyl, dẫn xuất phenanthrene, triterpenoid và saponin của nó, steroid và saponin của nó, dẫn xuất của acid malic và anthocyanin. Hơn nữa, polysaccharide từ B. striata là một thành phần hóa học điển hình khác của loài cây này. Các nghiên cứu dược lý đã chỉ ra rằng loài cây này có hoạt tính chữa lành vết thương, kháng khuẩn, chống ung thư, chống oxy hóa và kháng vi-rút. Bài tổng quan này nhằm mục đích cung cấp thông tin mới nhất và toàn diện về thành phần hóa học, tác dụng dược lý và kiểm soát chất lượng của B. striata, đồng thời xác định các nhu cầu nghiên cứu trong tương lai.

Nguyễn Thị Minh Phượng

ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ HOẠT TÍNH CHỐNG OXY HÓA CỦA MỘT POLYSACCHARIDE MỚI TỪ RỄ CHÙM CỦA BLETILLA STRIATA

Ziyan Chen và cs.

Carbohydrate Polymers. 2020; 227:115362

Một polysaccharide mới (pFSP) lần đầu tiên được phân lập từ phần rễ chùm (hệ thống rễ sợi) bị loại bỏ ban đầu của cây thuốc cổ truyền Trung Quốc, Bletilla striata (Bạch cập). pFSP bao gồm D-glucose, D-galactose và D-mannose theo tỷ lệ mol 1: 2,03: 3,45 với trọng lượng phân tử 9,1 × 104 Da. Polysaccharide này có khả năng loại bỏ hiệu quả các gốc tự do DPPH và superoxide với tỷ lệ ức chế lần lượt là 64,47% và 72,27% ở nồng độ 5,0 mg/ml, cao hơn so với polysaccharide từ củ B. striata. Các nghiên cứu về cấu trúc của quá trình oxy hóa periodat và sự phân hủy Smith cũng như phổ FT-IR đã được thực hiện, và kết hợp với phổ NMR 1D và 2D, cho thấy đơn vị lặp lại của pFSP chứa các đơn vị (1→4)-α-D-Glcp liên kết, (1→4)-β-D-Manp liên kết và (1→3,6)-β-D-Manp liên kết, cùng với các nhánh của (1→6)-β-D-Galp và kết thúc bằng gốc (1→)-β-D-Manp liên kết.

Nguyễn Thị Minh Phượng

HYDROGEL DỰA TRÊN POLYSACCHARIDE TỰ NHIÊN TỪ BLETILLA STRIATA GIÚP TĂNG TỐC QUÁ TRÌNH CẦM MÁU

Hui-Fang Lin và cs.

Gels. 2025 Jan; 11(1):48

Hầu hết các loại băng hydrogel hiện có đều tồn tại những hạn chế về tính chất cơ học, hoạt tính sinh học, khả năng tương thích hoặc tính linh hoạt, điều này dẫn đến việc phát triển các phương pháp chế tạo hydrogel nhanh, thân thiện với môi trường và tiết kiệm chi phí trong các ứng dụng sinh hóa và y sinh đang trở thành nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Trong nghiên cứu này, lấy ý tưởng từ hoạt tính sinh học vốn có, đặc tính giữ nước và khả năng tương thích sinh học của hydrogel polysaccharide tự nhiên, chúng tôi đã điều chế gel tự phục hồi. Sử dụng polysaccharide từ bạch cập, Bletilla striata (BSP), carboxymethyl chitosan (CMCS) và borax thông qua liên kết este borat, nghiên cứu này đã tạo ra các hydrogel từ thuốc thảo dược Trung Quốc có tác dụng cầm máu và tự phục hồi ở các nồng độ khác nhau (2,5%, 3,0% và 4,0%). Một máy đo lưu biến quay đã được sử dụng để mô tả hình thái và đặc tính lưu biến của các hydrogel. Ở tất cả các nồng độ, người ta thấy rằng module đàn hồi (G′) của hydrogel luôn luôn cao hơn đáng kể so với module nhớt (G″), cho thấy mạng lưới cấu trúc bên trong vững chắc. Tất cả các hydrogel đều có tỷ lệ sống của tế bào lên đến 100% và tỷ lệ tan máu dưới 1%, cho thấy khả năng tương thích sinh học vượt trội của hydrogel. Hơn nữa, hydrogel còn thể hiện khả năng cầm máu vượt trội trong mô hình cắt đuôi chuột in vivo, cũng như trong các thử nghiệm đông máu in vitro. Kết quả cho thấy hydrogel sở hữu đặc tính tự phục hồi tuyệt vời, cũng như khả năng tương thích sinh học và hiệu suất cầm máu tốt, mở đường cho việc phát triển hydrogel xanh cầm máu tiềm năng.

Đàm Thị Thanh Nhàn

CHẾ TẠO, ĐẶC TÍNH VÀ ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CHỮA LÀNH VẾT THƯƠNG CỦA HYDROGEL CHỨA CHIẾT XUẤT GLUCOSYLOXYBENZYL 2-ISOBUTYLMALATE TỪ BLETILLA STRIATA (THUNB.) REICHB.F.

Fei Ran và cs.

Molecular Sciences. 2024 Sep; 25(19):10563

Các nguyên liệu dược nguồn gốc từ thực vật có tiềm năng to lớn và ứng dụng đầy hứa hẹn trong việc chữa lành vết thương và tái tạo da. Nghiên cứu này nhằm phát triển một loại hydrogel có chiết xuất từ bạch cập, Bletilla striata (Thunb.Reichb.f.), cụ thể là chiết xuất glucosyloxybenzyl 2-isobutylmalates (B), và đặc trưng hóa các tác động tiềm năng của sản phẩm này trong quá trình chữa lành vết thương. Nghiên cứu đã tổng hợp hydrogel bằng cách sử dụng carbomer (C), glycerol (G) và triethanolamine (T) làm nền, kết hợp B vào nền hydrogel, và đánh giá các tính chất vật lý và hóa học của sản phẩm.

Các thử nghiệm in vitro được thực hiện để đánh giá khả năng tương thích sinh học của hydrogel glucosyloxybenzyl 2-isobutylmalates–carbomer–glycerol–triethanolamine (B-CGT) và ảnh hưởng của nó đến sự tăng sinh, di chuyển và bám dính của tế bào. Các thí nghiệm trên mô hình động vật đã đánh giá tiềm năng của hydrogel B-CGT trong việc thúc đẩy quá trình chữa lành vết thương. Kết quả cho thấy hydrogel B-CGT được tổng hợp có cấu trúc mạng ba chiều tốt và ổn định, thể hiện khả năng loại bỏ gốc tự do đáng kể trong các thử nghiệm chống oxy hóa. Trong các thí nghiệm trên tế bào, hydrogel B-CGT không biểu hiện độc tính tiềm ẩn và có khả năng tương hợp máu tốt cũng như thúc đẩy sự tăng sinh tế bào. Các thí nghiệm trên động vật cho thấy vết thương được điều trị bằng hydrogel B-CGT lành nhanh hơn đáng kể, cải thiện sự hình thành của biểu mô mới và collagen. Nghiên cứu này cho thấy hydrogel B-CGT được phát triển là một ứng viên đầy hứa hẹn cho sản phẩm băng vết thương, với các đặc tính lý hóa ưu việt và khả năng giải phóng thuốc có kiểm soát, thúc đẩy hiệu quả quá trình lành vết thương.

Đàm Thị Thanh Nhàn

TỔNG HỢP XANH NANO BẠC KHÁNG KHUẨN BẰNG POLYSACCHARIDE TỪ  BLETILLA STRIATA

Jiahao Zhang và cs.

Inorganics. 2023; 11(1):40

Hạt nano bạc là một vật liệu kháng khuẩn tốt được sử dụng làm thuốc diệt nấm phổ rộng, bao gồm hoạt tính kháng lại một số chủng đa kháng. So với các phương pháp tổng hợp hóa học và vật lý thông thường, tổng hợp xanh đã thu hút nhiều sự quan tâm nhờ các hoạt tính dược phẩm của sản phẩm tự nhiên, điều kiện phản ứng nhẹ, và thân thiện với môi trường, v.v. Trong nghiên cứu này, các hạt nano bạc (Ag NPs) được tổng hợp từ polysaccharide của bạch cập, Bletilla striata (BSP) và đặc điểm được xác định bằng quang phổ UV-vis và tán xạ ánh sáng động (DLS). Kính hiển vi điện tử quét (SEM) và kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM) cho thấy hình thái của Ag NPs là bán cầu với kích thước trung bình 20–35 nm. Polysaccharide từ B. striata không những có thể được sử dụng làm chất khử tự nhiên, mà còn có khả năng phục hồi tốt. Hơn nữa, kết quả thực nghiệm kháng khuẩn cho thấy sản phẩm Ag NPs-BSP có hoạt tính kháng vi sinh vật mạnh đối với vi khuẩn Gram dương (Staphylococcus aureus), vi khuẩn Gram âm (Escherichia coli) và vi nấm Candida albicans .

Đàm Thị Thanh Nhàn

MÀNG NANO SỢI TỔNG HỢP TỪ BLETILLA STRIATA ĐƯỢC CHẾ TẠO BẰNG PHƯƠNG PHÁP PHƯƠNG PHÁP KÉO SỢI LỰC ĐIỆN TRƯỜNG NHŨ TƯƠNG NHẰM TĂNG CƯỜNG LÀM LÀNH VẾT THƯƠNG DO BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

Kai Zhao và cs.

Journal of Biomaterials Applications. 2023 Sep; 38(3): 424-437

Vết thương do bệnh đái tháo đường gây ra tình trạng stress nghiêm trọng và gánh nặng tài chính cho bệnh nhân, và việc tìm ra loại băng hiệu quả để kiểm soát vết thương là rất quan trọng. Là một loại thuốc thảo dược Trung Quốc với lịch sử ứng dụng lâm sàng lâu đời, bạch cập, Bletilla striata có tác dụng dược lý đáng kể trong việc điều trị nhiều loại vết thương. Trong nghiên cứu này, PLA và các hoạt chất của B. striata đã được chế tạo thành khung sợi bằng công nghệ kéo sợi lực điện trường nhũ tương để kiểm soát vết thương do đái tháo đường ở chuột. Kết quả của kính hiển vi điện tử quét cho thấy sợi có cấu trúc lõi-vỏ đã hình thành thành công bằng phương pháp kéo sợi lực điện trường nhũ tương. Màng sợi thể hiện khả năng hấp thụ nước và tốc độ truyền hơi nước ưu việt, có thể ức chế sự phát triển của Staphylococcus aureusPseudomonas aeruginosa, có khả năng tương thích tốt và đạt hiệu quả vượt trội trong quá trình lành vết thương do đái tháo đường. Đặc biệt trong thí nghiệm chữa lành vết thương in vivo, tỷ lệ chữa lành vết thương của phương pháp điều trị bằng màng sợi tổng hợp đạt 98,587 ± 2,149% trong 16 ngày. Nghiên cứu này chứng minh hiệu quả điều trị tốt của màng sợi phát triển đối với vết thương do đái tháo đường và màng này có tiềm năng được ứng dụng để chữa lành vết thương mạn.

Đàm Thị Thanh Nhàn

THÀNH PHẦN HÓA HỌC CÁC CHẤT CHUYỂN HÓA CỦA VI KHUẨN NỘI SINH PENICILLIUM OXALICUM TỪ CÂY BLETILLA STRIATA (THUNB.) REICHB. F.

Ran Liu và cs.

Mycobiology. 2023; 51(3):148-156

Chủng nấm Penicillium oxalicum có thể được phân lập từ củ của cây bạch cập (Bletilla striata). Các sản phẩm lên men ở trạng thái rắn của chủng này được cô đặc bằng phương pháp chiết ngấm kiệt. Phân tách và tinh chế được thực hiện ở chiết xuất ethyl acetate bởi sắc ký lỏng hiệu năng cao chế hóa. Dựa trên việc sử dụng phổ kế, nghiên cứu đã xác định được 17 hợp chất đã biết: 12,13-dihydroxy-fumitremorgin C (1), pseurotin A (2), tyrosol (3), cyclo-(L-Pro-L-Val), (4), cis-4-hydroxy-8-O-methylmellein (5), uracil (6), cyclo-(L-Pro-L-Ala) (7), 1,2,3,4-tetrahydro-4-hydroxy-4-quinolin carboxylic acid (8), cyclo-(Gly-L-Pro) (9), 2'-deoxyuridin (10), 1-(β-D-ribofuranosyl) thymin (11), cyclo-(L-Val-Gly) (12), 2'-deoxythymidin (13), cyclo-(Gly-D-Phe)(14),cyclo-L-(4-hydroxyprolinyl-D-leucin (15) cyclo-(L)-4-hydroxy-Pro-(L)-Phe (16), uridin (17). Các hợp chất 1357811121417 lần đầu tiên được tìm thấy và phân lập từ vi sinh vật này.

Lương Thị Lan

MỘT POLYSACCHARIDE ĐƯỢC PHÂN LẬP TỪ BLETILLA STRIATA KẾT HỢP VỚI METHYLCELLULOSE ĐỂ TẠO THÀNH HYDROGEL THÔNG QUA QUÁ TRÌNH TỰ LẮP RÁP ĐỂ BĂNG VẾT THƯƠNG

Subhaini Jakfar và cs.

International Journal of Molecular Sciences. 2022; 23(19):12019

Polysaccharid từ bạch cập, Bletilla striata (BSP) là một polysaccharide tự nhiên có nguồn gốc từ loài lan trên cạn ở Đông Á, có tác dụng chống viêm, kháng vi-rút và chống oxy hóa. Theo truyền thống, BSP được sử dụng để cầm máu và chữa lành vết thương. Trong nghiên cứu này, BSP được phối hợp với methylcellulose (MC) và methylparaben (MP) để tạo ra một hydrogel thông qua con đường tự lắp ráp như một loại băng vết thương. Các hydrogel phát triển được thiết kế là M2Bx, M5Bx và M8Bx M là viết tắt của MC và con số biểu thị phần trăm. Trong khi đó, chữ cái thứ hai của B là viết tắt của BSP và x đề cập đến sự thay đổi phần trăm của BSP: x = 0,5%, 1% và 2%. Tất cả các hydrogel MB phát triển đều chứa β-glucopyranosyl và α-mannopyranosyl và thử nghiệm lưu biến có giá trị tan δ ≥ 0,5. Kích thước lỗ rỗng của hydrogel giảm khi tăng hàm lượng MC và BSP, đồng thời có đặc tính tốt hơn về khả năng thoát nước và tỷ lệ trương nở. Các đánh giá in vitroin vivo cho thấy tất cả các hydrogel MB được phát triển đều có tỷ lệ sống sót của tế bào cao và đặc tính chữa lành vết thương tốt. Nhóm hydrogel M8B2 được nhận thấy là vượt trội hơn các nhóm khác trong hydrogel MB đã phát triển. Do đó, chúng tôi tin rằng công thức hydrogel M8B2 có tiềm năng cao để phát triển thành băng vết thương.

Lương Thị Lan

HYDROGEL CHỨA TETRAMETHYLPYRAZIN, POLYSACCHARID TỪ BẠCH CẬP (BLETILLA STRIATA) VÀ ACID HYALURONIC SỬ DỤNG ĐIỀU TRỊ VẾT THƯƠNG DO BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

Jian Zhang và cs.

European Polymer Journal. 2024; 215:113209

iều trị vết thương không kịp thời và triệt để thường dẫn đến nguy cơ tàn tật và tử vong ở người mắc bệnh đái tháo đường. Các phác đồ điều trị thông thường thường kém hiệu quả trong điều trị vết thương do đái tháo đường, do đó cần tìm kiếm phương pháp để mang lại lợi ích điều trị. Trong những thập kỷ qua, những tiến bộ trong phát triển thuốc từ thực vật đã cách mạng hóa lĩnh vực chữa lành vết thương và tái tạo mô. Trong nghiên cứu hiện tại, tetramethylpyrazine (TMP), một alkaloid được phân lập từ rễ Xuyên khung (Ligusticum chuanxiong Hort), đã được ứng dụng để điều trị vết thương do đái tháo đường. Một hydrogel đã được nghiên cứu, ứng dụng hai loại polyme sinh học là polysaccharide từ bạch cập, Bletilla striata (BSP) và acid hyaluronic (HA) để tạo thuận lợi cho sử dụng TMP tại chỗ trên vết thương sâu ở chuột bị đái tháo đường do streptozocin gây ra. Công thức hydrogel thu được (gọi là TMP-BSP-HA) đã làm giảm viêm, tăng sinh mạch máu và tích tụ collagen mới. Do đó, TMP-BSP-HA đẩy nhanh đáng kể quá trình lành vết thương do đái tháo đường so với công thức hydrogel chứa TMP của INTRASITE Gel (một loại băng vết thương chứa gốc carboxymethylcellulose thương mại). Nghiên cứu hiện tại cho thấy TMP-BSP-HA có hiệu quả thúc đẩy quá trình lành vết thương và cung cấp một phương pháp tiếp cận đầy hứa hẹn cho liệu pháp điều trị vết thương do đái tháo đường.

Hoàng Thị Diệu Hằng

BĂNG HYDROGEL TỰ PHỤC HỒI DỰA TRÊN POLYSACCHARID OXY HÓA TỪ BLETILLA STRIATA VÀ GELATIN CATION DÙNG TRONG ĐIỀU TRỊ CHẤN THƯƠNG DA

Hai-Yun Zhang và cs.

International Journal of Biological Macromolecules. 2023 December; 253(6):127189

 Chấn thương da đặt ra những thách thức đáng kể trong điều trị lâm sàng. Các hydrogel được bào chế từ polysaccharid có nguồn gốc tự nhiên đã cho thấy tiềm năng lớn trong quá trình lành vết thương. Trong nghiên cứu này, một loại hydrogel tự lành tạo liên kết chéo in situ mới đã được phát triển từ polysaccharid từ bạch cập, Bletilla striata (BSP) oxy hóa và gelatin cation (BG-gel), thông qua phản ứng Schiff-base mà không cần sử dụng các chất tạo liên kết chéo hóa học. Tương tự như chất nền ngoại bào tự nhiên, hydrogel BSP-gelatin cation thể hiện đặc tính đàn hồi và độ nhớt điển hình. Các đặc tính lưu biến, hành vi cơ học, cấu trúc xốp và khả năng phân hủy của BG-gel có thể được điều chỉnh bằng cách thay đổi số lượng nhóm aldehyd của BSP. Đáng chú ý, hydrogel cho thấy hiệu quả cầm máu vượt trội trong mô hình cắt đuôi chuột và rạch gan chuột. Đồng thời, hydrogel thúc đẩy đáng kể quá trình liền vết thương bằng cách kích thích tái tạo nang lông, sửa chữa mạch máu, lắng đọng collagen và tái cấu trúc mô da thông qua tăng biểu hiện CD31 trong mô hình vết thương da sâu ở chuột. Hydrogel đa chức năng này có tiềm năng trở thành nguyên liệu băng vết thương trong điều trị chấn thương vùng da sâu, vừa đảm bảo cầm máu, vừa rút ngắn tiến trình lành vết thương.

Hoàng Thị Diệu Hằng

ĐẶC TÍNH CẤU TRÚC CỦA POLYSACCHARID TỪ BLETILLA STRIATA VÀ QUÁ TRÌNH TẠO GEL HIỆP ĐỒNG GIỮA POLYSACCHARID VÀ XANTHAN GUM

Yanjie Hou và cs.

Food Hydrocolloids. 2023 September; 142:108843

 Polysaccharid từ bạch cập, Bletilla striata (BSP) ngày càng thu hút sự quan tâm nhờ chứa nhiều thành phần có hoạt tính sinh học. Trong nghiên cứu này, BSP được thu nhận bằng phương pháp chiết nước và tủa bằng ethanol, sau đó khảo sát cấu trúc cũng như sự tương tác hiệp đồng với xanthan gum (XG). BSP được xác định là một polymer có tính tuyến tính cao, với khối lượng phân tử trung bình là 323,7 kDa và tỷ lệ mannose:glucose là 2,4:1,0. Khung chính của BSP gồm →4)-β-Manp-(1→, →4)-β-Glcp-(1→, kèm một lượng nhỏ →3)-β-Manp-(1→, tận cùng bằng gốc T-Manp; ngoài ra còn có một số nhóm O-acetyl gắn tại vị trí C-3 của gốc →4)-Manp-(1→. Mặc dù bản thân BSP có khả năng tạo gel kém, nhưng khi phối hợp với XG lại hình thành được gel bền, có tính chất thixotropic (đặc tính của chất lỏng phi Newton: giảm độ nhớt khi chịu lực cắt). Khi làm nguội, bất kể tỷ lệ phối trộn, hỗn hợp BSP/XG đều thể hiện sự gia tăng rõ rệt giá trị G′ ở khoảng ~60 °C, được xác định là nhiệt độ khởi phát của quá trình tạo gel hiệp đồng. Khi gia nhiệt, tất cả các gel tan chảy ở 60 °C mà không quan sát thấy hiện tượng trễ nhiệt. Tác dụng hiệp đồng rõ rệt nhất đạt được khi tỷ lệ BSP/XG là 5:5. Nghiên cứu này cung cấp thêm hiểu biết mới về cấu trúc BSP và sự tương tác hiệp đồng với XG. Đặc biệt, đặc tính thixotropy của gel hỗn hợp gợi mở ứng dụng trong bào chế các sản phẩm thực phẩm mềm, dễ nhai và dễ nuốt.

Hoàng Thị Diệu Hằng

GIẢI TRÌNH TỰ BỘ GEN PHÂN GIẢI THEO KIỂU GEN ĐƠN BỘI CỦA BLETILLA STRIATA (THUNB.) REICHB.F. NHẰM LÀM SÁNG TỎ GIÁ TRỊ DƯỢC LIỆU

Lian Jiang và cs.

The Plant Journal. 2022 July; 111:1340

 Bletilla striata, thường được gọi là bạch cập, là một loài được sử dụng trong y học cổ truyền Trung Quốc; được đánh giá cao vì các ứng dụng y học và có giá trị kinh tế cao. Trong bài báo này, chúng tôi báo cáo về một bộ gen chất lượng cao được giải trình tự theo haplotype (kiểu gen đơn bội) của B. striata, haplotype A (2,37 Gb, với khung N50 là 146,39 Mb và N50 đơn vị contig là 1,65 Mb) và haplotype B (2,43 Gb, với khung N50 là 150,22 Mb và N50 đơn vị contig là 1,66 Mb), được lắp ráp từ các trình tự đọc độ trung thực cao (HiFi) và trình tự phân tích tổ chức không gian ba chiều của sợi nhiễm sắc (chromatin) trong tế bào (Hi-C). Nghiên cứu tìm thấy bằng chứng cho thấy B. striata đã trải qua hai sự kiện nhân đôi toàn bộ bộ gen (WGD): một sự kiện WGD cổ xưa được chia sẻ bởi hầu hết các cây một lá mầm và một sự kiện WGD gần đây chỉ có ở tất cả các loài lan. Nghiên cứu cũng tái tạo lại bộ nhiễm sắc thể tổ tiên của loài lan (AOK) gồm 18 nhiễm sắc thể cổ xưa và quỹ đạo tiến hóa của 16 nhiễm sắc thể B. striata hiện đại. Phân tích bộ gen so sánh cho thấy các họ gen mở rộng của B. striata có thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình sinh tổng hợp các chất chuyển hóa thứ cấp và sự thích nghi với môi trường. Bằng cách kết hợp dữ liệu bộ gen và dữ liệu phiên mã, nghiên cứu đã xác định 10 thành viên cốt lõi từ chín họ gen có thể liên quan đến quá trình sinh tổng hợp polysaccharide của B. striata (BSP). Dựa trên thí nghiệm làm im lặng gen (giảm biểu hiện gen) bằng cách sử dụng cơ chế phòng vệ chống virus của RNA (VIGS) và lai hai thể nấm men, nghiên cứu đã giới thiệu một yếu tố phiên mã (TF) MYB, BsMYB2, có thể điều chỉnh quá trình sinh tổng hợp BSP bằng cách tương tác trực tiếp với tám gen quan trọng liên quan đến BSP: sacA1, HK1, scrK1, scrKK2, GPI1, manA1, GMPP1 và UGP2_1. Nghiên cứu này sẽ tăng cường sự hiểu biết về sự tiến hóa của loài lan và đẩy nhanh việc lai tạo B. striata có sự hỗ trợ của phân tử nhằm cải thiện các đặc tính có giá trị y học.

Chu Quang Trí

MỐI QUAN HỆ PHỔ - TÁC DỤNG GIỮA DẤU VÂN TAY HPLC VÀ HOẠT TÍNH CHỐNG OXY HÓA CỦA BLETILLA STRIATA

Sha Wen và cs.

Journal of Chromatography B. 2024; 1248:124351

 Bletilla striata (Bạch cập) là một loài thảo dược sống lâu năm, lần đầu tiên được ghi chép trong “Thần Nông bản thảo kinh”. Các nghiên cứu dược lý đã cho thấy loài này có hoạt tính thúc đẩy quá trình lành vết thương, kháng viêm và chống oxy hóa. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa hoạt tính chống oxy hóa và thành phần hóa học của B. striata vẫn chưa được làm rõ. Trong nghiên cứu này, phương pháp hóa trắc học (chemometric) được sử dụng để xây dựng mối quan hệ phổ – tác dụng giữa dấu vân tay hóa học của 20 lô dịch chiết B. striata từ các nguồn gốc khác nhau và hoạt tính chống oxy hóa in vitro của chúng. Kết quả cho thấy thành phần hóa học của các mẫu từ các nguồn khác nhau có sự khác biệt đáng kể, trong đó các mẫu từ tỉnh Thiểm Tây và Hồ Bắc có chất lượng tương đối tốt hơn. Trong số 10 pic chung, coelonin, gymnoside IX và dactylorhin A được xác định có mối tương quan đáng kể với hoạt tính chống oxy hóa của B. striata. Kết quả nghiên cứu này sẽ cung cấp cơ sở và những hiểu biết sâu hơn cho việc đánh giá và kiểm soát chất lượng Bletilla striata.

Chu Quang Trí

THIẾT LẬP HỆ THỐNG NHÂN GIỐNG NHANH CHO CÂY BLETILLA STRIATA

Ze-yuan Mi và cs.

HortScience.2021 Mar; 56(4): 454 – 459

 Cây bạch cập (Bletilla striata (Thunb. ex A. Murray) Rchb. f.), là loài thảo mộc sống lâu năm thuộc họ Lan có nhiều tác dụng đáng kể và giá trị kinh tế cao, đã được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Mặc dù loại cây này có nhiều hạt, nhưng tỷ lệ nảy mầm lại cực kỳ thấp, dẫn đến suy giảm nguồn gen trong khi nhu cầu thị trường tăng lên hàng năm. Để giải quyết vấn đề này, nghiên cứu này đã thử nghiệm hệ thống nảy mầm vô trùng và hệ thống công nghệ  hạt giống trực tiếp. Trên môi trường Murashige và Skoog (MS), 2,0 mg/L 6-benzylaminopurin (6-BA) và 1,0 mg/L axit naphthylacetic (NAA) được thêm vào trước khi hạt nảy mầm, và 70 g/L nước ép chuối và 0,5 mg/L NAA được thêm vào khi ra rễ. Sau đó, cây con được cấy sang giá thể hỗn hợp gồm mùn, cát sông và vỏ cây (tỷ lệ thể tích là 3:1:1). Hệ thống hạt giống trực tiếp bao gồm xử lý giá thể, gieo hạt, ươm cây con, sinh trưởng của cây con và cấy  chuyển cây. Đất trồng cỏ, bã mía Hoàng Giang và cát sông được chọn làm giá thể. Kết quả đã cho thấy tỷ lệ nảy mầm tăng lên 91,8%, tỷ lệ tái sinh cây con tăng lên 82,0%. Sau 180 ngày nuôi cấy, cây có thể được cấychuyển như cây giống hoàn chỉnh .Việc thiết lập hệ thống ươm cây giống B. striata cung cấp một quy trình công nghệ sản xuất an toàn, nhanh chóng và đáng tin cậy cho phát triển công nghiệp.

Lê Thị Quỳnh Nga

SỰ NẢY MẦM KHÔNG CỘNG SINH VÀ PHÁT TRIỂN CÂY CON CỦA LOÀI LAN BẠCH CẬP (Bletilla striata) TRONG ĐIỀU KIỆN NUÔI CẤY IN VITROEX VITRO

Mehmet Uğur Kahraman và Francis John Cullum

Horticultural studies. 38 (1): 1-14

Các quy trình nảy mầm không cộng sinh và phát triển cây con của loài lan bạch cập (Bletilla striata) đã được nghiên cứu trong điều kiện in vitroex vitro. Năm loại môi trường nảy mầm không cộng sinh khác nhau (môi trường duy trì lan ½ P6668 ¬Phytamax), môi trường ½ P6668 ¬Phytamax có bổ sung nước dừa, môi trường P723 (Môi trường gieo hạt lan PhytoTechnology, môi trường P723 PhytoTechnology có bổ sung nước dừa và môi trường ½ MS) để nuôi cấy in vitro  và giá thể rêu than bùn được sử dụng cho nuôi cấy ex vitro. Hiệu quả của các môi trường này được đánh giá trong 8 tuần đối với khả năng nảy mầm và phát triển cây con của lan bạch cập. Kết quả cho thấy hạt có thể nảy mầm trên tất cả các môi trường, tuy nhiên tỷ lệ nảy mầm cao nhất thu được trong môi trường P723 có nước dừa trong khi tỷ lệ thấp nhất thu được trong môi trường rêu than bùn. Ngoài ra, các thông số sinh trưởng về lá của cây con bạch cập cao nhất khi phát triển trong môi trường ½ MS, trong khi cây con trong rêu than bùn cho kết quả thấp nhất. Hơn nữa, tất cả các thể mầm (protocorm) sau khi nảy mầm đều cho thấy sự hình thành rễ giả trong tất cả các môi trường.

Nguyễn Thị Xuyên

ĐỘNG HỌC SINH TRƯỞNG MÔ SẸO VÀ SỰ TÍCH LŨY CÁC CHẤT CHUYỂN HÓA THỨ CẤP CỦA BẠCH CẬP (Bletilla striata Rchb.f.) TỪ MÔ SẸO NUÔI CẤY HUYỀN PHÙ

Yinchi Pan và cs.

PLoS One. 2020; 15(2):e0220084

Bạch cập (Bletilla striata) là cây thuốc truyền thống quý hiếm của Trung Quốc với nhiều công dụng nhưng khả năng tái sinh nguồn gen chậm. Nhằm đánh giá động học sinh trưởng mô sẹo và sự tích luỹ các chất chuyển hóa thứ cấp (SM), hệ thống nuôi cấy huyền phù mô sẹo đã được chứng minh là một phương pháp hiệu quả để thu nhận hàm lượng các hoạt chất cao trong dược liệu. Một phương pháp nuôi cấy huyền phù mô sẹo hiệu quả để thu được sự phát triển mô sẹo và các tế bào gốc của bạch cập đã được thực hiện bằng cách tạo mô sẹo in vitro từ hạt bạch cập. Động học sinh trưởng mô sẹo và quá trình tích tụ SM đã được phân tích bằng một mô hình toán học. Kết quả mô hình động học sinh trưởng mô sẹo đã biểu lộ được đường cong sinh trưởng của mô sẹo nuôi cấy huyền phù bạch cập có dạng hình sigma, cho thấy sự thay đổi trong quá trình sinh trưởng của mô sẹo nuôi cấy huyền phù. Môi trường sinh trưởng mô sẹo Murashige và Skoog cải tiến là môi trường thuận lợi nhất cho sự hình thành mô sẹo bạch cập, với sự sinh trưởng mô sẹo cao nhất xảy ra trong giai đoạn ổn định của quá trình nuôi cấy.

Sự tăng sinh trưởng mô sẹo bắt đầu sau 7 ngày và sau đó giảm dần cho đến ngày thứ 24 của quá trình nuôi cấy và đạt mức cao nhất vào ngày thứ 36 trong cả khối lượng khô và khối lượng tươi.

Hàm lượng coelonin đạt đỉnh trong giai đoạn sinh trưởng luỹ thừa và sau đó giảm dần trong giai đoạn ổn định của quá trình nuôi cấy huyền phù. Hàm lượng coelonin tối đa (khoảng 0,3323 mg/g khối lượng  khô mô sẹo) được quan sát thấy vào ngày thứ 18 của chu kỳ nuôi cấy. Trong khi dactylorhin A và militarin đạt nồng độ cao nhất vào ngày 24, và p-hydroxybenzyl rượu vào ngày 39. Nghiên cứu này cũng đặt nền móng cho một mô hình đa toán học để mô tả tốt hơn sự biến động tích lũy của SM. Việc sản xuất SM thể hiện tính đặc hiệu cao trong quá trình sinh trưởng và phát triển mô sẹo. Nghiên cứu này đã cung cấp một phương pháp được tổ chức tốt để tăng cường sự tích lũy và sản xuất SM trong quá trình sinh tổng hợp mô sẹo ở quy mô lớn trong nuôi cấy huyền phù mô sẹo B. striata.

Nguyễn Thị Xuyên

ĐÁNH GIÁ ĐA DẠNG DI TRUYỀN QUẦN THỂ VÀ PHÂN BỐ LOÀI LOÀI BẠCH CẬP BLETILLA STRIATA (HỌ ORCHIDACEAE) Ở KHU VỰC TÂY NAM TRUNG QUỐC BẰNG CHỈ THỊ SSR

Liangliang Luo và cs.

Ecology and Evolution. 2025; 15(8)

Chúng tôi đã đánh giá đa dạng di truyền và cấu trúc quần thể của loài lan bạch cập (Bletilla striata) được bảo vệ trên 18 quần thể hoang dã ở khu vực tây nam Trung Quốc. 8 cặp chỉ thị phân tử SSR đã được sử dụng để phân tích đa dạng di truyền và cấu trúc quần thể, trong khi mô hình Maxent tối ưu hoá được áp dụng để dự đoán thay đổi phân bố môi trường sống dưới điều kiện lịch sử và và ba kịch bản khí hậu tương lai (SSP126, SSP245 và SSP585), dựa trên 141 dữ liệu phân bố tự nhiên và 19 yếu tố khí hậu. Kết quả cho thấy số alen trung bình (Na) là 3,549 và số alen hiệu quả (Ne) là 2,636, với chỉ số thông tin đa hình (PIC) trung bình đạt 0,748 trên các quần thể bạch cập. Mức đa dạng di truyền trung bình được ghi nhận (dị hợp tử quan sát, Ho = 0,402; dị hợp tử kỳ vọng, He = 0,509); (73% tổng biến dị nằm trong các quần thể. Đáng chú ý, quần thể số 02 tại Zhijin (tỉnh Quý Châu) thể hiện sự phân hóa di truyền tương đối cao (Ho = 0,675; He = 0,658)) trong đó 73% tổng biến dị nằm trong các quần thể, trong khi quần thể số 02 ở Zhijin, Quý Châu thể hiện sự sai khác di truyền tương đối cao (Ho = 0,675; He = 0,658). Phân tích phân cụm UPGMA, phân tích cấu trúc quần thể và phân tích thành phần chính đã xác định hai nhóm phụ chính trong quần thể bạch cập. Trong số 19 biến khí hậu được phân tích, bốn yếu tố liên quan đến nhiệt độ và hai yếu tố liên quan đến lượng mưa được xác định là nhân tố chính ảnh hưởng đến phân bố địa lý của loài bạch cập. Dự báo cho giai đoạn thập niên (2050s và 2070s) 2050 và 2070 dưới các kịch bản khí hậu khác nhau cho thấy xu hướng mở rộng môi trường sống thích hợp về phía Bắc đối với loài bạch cập. Diện tích môi trường sống thích hợp dự kiến tăng từ 288,3450 × 10⁴ km² trong điều kiện lịch sử (1970–2000) lên 351,9792–405,6077 × 10⁴ km² (giai đoạn 2050s–2070s). Các quần thể B. striata hoang dã ở Tây Nam Trung Quốc và các khu vực lân cận đại diện cho nguồn gen quý giá với mức đa dạng di truyền cao, (có tiềm năng lớn cho các hoạt động nhân giống và nuôi trồng nhân tạo) mang lại tiềm năng lớn cho các hoạt động nuôi trồng nhân tạo. Hơn nữa, những dự báo về sự biến động phân bố trong tương lai cung cấp những thông tin quan trọng để định hướng bảo tồn, phát triển và sử dụng bền vững loài bạch cập B. striata.

Nguyễn Thị Xuyên

NGHIÊN CỨU CÔNG NGHỆ NUÔI CẤY MÔ ‘HAI GIAI ĐOẠN’ VÀ NHÂN NHANH LOÀI CÂY THUỐC QUÝ HIẾM BẠCH CẬP (Bletilla striata)

Chun-lei Liu và cs.

Journal of Southwest University Natural Science Edition. 2020; 42(1): 30-36.

Nhằm rút ngắn quá trình hình thành và nâng cao tỷ lệ sống sót của cây con bạch cập thu được từ nuôi cấy mô, nhóm nghiên cứu đã tiến hành thí nghiệm trực giao L16(43) , sử dụng hạt chín của cây bạch cập làm mẫu vật, đồng thời áp dụng phương pháp nuôi cấy mô “hai giai đoạn” để tối ưu hóa môi trường nảy mầm, cảm ứng củ và phát triển cây con khỏe mạnh.. Kết quả cho thấy, với các chỉ tiêu đánh giá gồm thời gian nảy mầm, chiều cao chồi và tỷ lệ này mầm, môi trường tối ưu cho hạt giống bạch cập là ½ MS + 0,1 mg/L NAA + 0,1 mg/L GA₃ + 20 g/L đường; Môi trường tối ưu cho cảm ứng tạo củ và phát triển cây con là ½ MS + 0,6 mg/L NAA + 0,8 mg/L 6-BA + 0,5 mg/L PP333 + 30 g/L chuối nghiền + 30 g/L đường.Thời gian phân hóa hình thành củ được rút ngắn còn 20,7 ngày. Sau 60 ngày nuôi cấy, tỷ lệ phân hóa củ đạt 91%, và đường kính củ đạt 6,91 mm. Các chồi nuôi cấy mô phát triển khỏe mạnh và  đạt tỷ lệ sống 95% khi chuyển ra trồng ngoài đồng ruộng Tóm lại, phương pháp nuôi cấy mô “hai giai đoạn” cho phép tạo ra cây con bạch cập chất lượng tốt góp phần giảm đáng kể chi phí nhân giống.”

Nguyễn Thị Xuyên

ĐẶC ĐIỂM CỦA microRNA THAM GIA VÀO QUÁ TRÌNH NẢY MẦM KHÔNG CỘNG SINH CỦA HẠT BẠCH CẬP Bletilla ttriata (HỌ LAN)

Caixia Wang và cs.

Plant Physiology and Biochemistry. 2021; 167: 163-173

 Các loài lan phân bố trên toàn thế giới, và một số loài có giá trị kinh tế đáng kể. Hạt lan có kích thước rất nhỏ, cấu trúc đơn giản và thiếu nguồn dinh dưỡng dự trữ. Sự nảy mầm hạt không cộng sinh là một chiến lược nhân giống quan trọng với loài lan. MicroRNA (miRNA) đóng vai trò thiết yếu trong quá trình nảy mầm của hạt. Tuy nhiên, rất ít nghiên cứu xem xét miRNA liên quan đến sự nảy mầm của hạt lan. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành giải trình tự RNA nhỏ so sánh ở 5 giai đoạn để mô tả các miRNA có liên quan đến sự nảy mầm hạt không cộng sinh của bạch cập. Tổng cộng 253 miRNA đã biết và 125 miRNA mới đã được xác định. Trong đó, 71 miRNA đã biết và 29 miRNA mới cho thấy sự biểu hiện khác biệt rõ rệt giữa 5 giai đoạn. PCR định lượng cho thấy mối tương quan nghịch giữa mức độ biểu hiện của các miRNA khác biệt (DE miRNA) và các gen đích của chúng. Phân tích chú giải chức năng và làm giàu các gen đích của DE miRNA giữa các giai đoạn liền kề chỉ ra rằng sự điều hòa miRNA–gen đích có liên quan đến nhiều quá trình quan trọng trong quá trình nảy mầm, như truyền tín hiệu, sinh tổng hợp và vận chuyển hormone thực vật. Có 22 miRNA được dự đoán có tham gia vào các quá trình liên quan đến hormon thực vật. Nồng độ của axit abscisic, gibberellin A3, IAA, axit jasmonic, trans-zeatin ribosid, và N6-(Δ2-isopentenyl) adenin thay đổi đáng kể giữa 5 giai đoạn. 9 miRNA liên quan đến hormon thực vật được thử nghiệm và các gen đích của chúng thể hiện mối tương quan đáng kể với ít nhất một loại hormon thực vật. 5′-RLM-RACE xác nhận rằng một bản phiên mã mã hóa yếu tố đáp ứng auxin đã bị cắt bởi Bst-miR160e đúng như dự đoán.

Lần đầu tiên, chúng tôi đã mô tả các miRNA liên quan đến sự nảy mầm hạt không cộng sinh của một loài lan, qua đó góp phần làm sáng tỏ cơ chế điều hòa do miRNA trung gian trong quá trình nảy mầm của hạt lan.

Nguyễn Thị Xuyên

CÁC LOÀI COLLETOTRICHUM GÂY BỆNH THÁN THƯ TRÊN CÂY BẠCH CẬP (BLETILLA STRIATA) TẠI TỈNH QUÝ CHÂU, TRUNG QUỐC

Yu Liu  và cs.

Crop Protection. 2023; 170: 106277

Bạch cập (Bletilla striata (Thunb.) Rchb.f.) là một loại cây thuốc truyền thống của Trung Quốc được trồng rộng rãi ở Trung Quốc, với diện tích gieo trồng hơn 10.000 ha tại tỉnh Quý Châu. Gần đây bệnh thán thư đã được ghi nhận lây lan rộng rãi trong các vùng trồng bạch cập  tại tỉnh này. Nghiên cứu này nhằm xác định tác nhân gây bệnh thán thư trên cây bạch cập  tại tỉnh Quý Châu. Các mẫu nấm gây bệnh được phân lập từ lá có triệu chứng bệnh thu thập từ các thành phố Tuân Nghĩa và Hưng Nghĩa của tỉnh Quý Châu vào năm 2022. Chúng tôi đã thu được 32 mẫu bệnh  Colletotrichum và chia chúng thành bốn nhóm dựa trên các đặc điểm hình thái học. Phân tích cây quan hệ họ hàng trên cơ sở vùng gen ITS và các gen actin, chitin synthase, và glyceraldehyde-3-phosphate dehydrogenase đã chứng tỏ bốn loài  thuộc chi Colletotrichum là tác nhân gây bệnh thán thư trên cây bạch cập ở tỉnh Quý Châu. Các loài nấm này được xác định là C. liriopes, C. fructicola, C. boninenseC. plurivorum, chiếm tỷ lệ bệnh lần lượt 40,6%, 31,3%, 18,8% và 9,4%. Kết quả thử nghiệm độc lực cho thấy cả bốn loài nấm gây bệnh thán thư này đều có mức độ gây bệnh khác nhau đối với bạch cập. Theo hiểu biết của chúng tôi, đây là nghiên cứu đầu tiên xác định các loài C. liriopes, C. boninenseC. plurivorum là tác nhân gây bệnh thán thư trên cây bạch cập  tại Quý Châu, Trung Quốc.

Hoàng Thị Như Nụ

SỨC SỐNG VÀ KHẢ NĂNG NẢY MẦM CỦA HẠT GIỐNG BLETILLA STRIATA THEO THỜI GIAN VÀ NỒNG ĐỘ XỬ LÝ NaOCl

Young Ho Jung và cs.

Journal of Plant Biotechnology. 2020; 47(1): 73-77

Nghiên cứu này đã được thực hiện nhằm đánh giá sức sống của hạt giống Bletilla striata Rchb.f. được xử lý bằng natri hypoclorit (NaOCl) ở các nồng độ khác nhau trong các khoảng thời gian khác nhau. Đồng thời, nghiên cứu cũng xem xét ảnh hưởng của thời gian và nồng độ xử lý NaOCl đến sự hình thành và tỷ lệ nảy mầm của hạt giống B. Striata. Kết quả cho thấy, hạt B. striata không qua xử lý có tỷ lệ sống cao nhất (82,7%). Việc xử lý với NaOCl ở nồng độ trên 1,5% làm giảm đáng kể tỷ lệ sống của hạt so với các nồng độ dưới 1%. Tỷ lệ hình thành và tỷ lệ nảy mầm của hạt giống cao nhất (lần lượt là 90,1% và 94,1%) khi hạt được xử lý bằng NaOCl 0,5% trong 20 phút. Những kết quả này có thể được sử dụng làm dữ liệu cơ bản quan trọng cho sự sinh trưởng và phục hồi B. Striata, đồng thời cho thấy tiềm năng trong việc phục hồi cá thể loài này trong môi trường tự nhiên.

Hoàng Thị Như Nụ

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA VI SINH VẬT ĐẤT ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ SINH TRƯỞNG VÀ TÍCH TỤ CÁC CHẤT CHUYỂN HÓA THỨ CẤP CỦA BLETILLA STRIATA (THUNB.) RCHB. F

Qingqing Xu và cs.

BMC Microbiology. 2025; 25: 276

Bletilla striata (Thunb.) Rchb. F., một loài cây thân thảo sống lâu năm được biết đến với đặc tính chữa bệnh. Sự sinh trưởng và hình thành chất chuyển hóa thứ cấp của B. striata có thể bị ảnh hưởng bởi vi sinh vật đất. Để nghiên cứu tác động các vi sinh vật đất giúp tăng cường sinh trưởng và chất lượng của B. striata, chúng tôi đã trồng cây con B. striata đã được khử trùng bằng bức xạ và bổ sung vi sinh vật từ đất sét pha cát hoặc đất thịt pha cát. Sau hai năm sinh trưởng, chúng tôi đã tiến hành giải trình tự 16S và ITS Illumina để xác định vi khuẩn và nấm xâm chiếm đất rễ, rễ, củ và lá của B. striata. Chúng tôi đã xác định các chỉ số tăng trưởng của B. striata, đồng thời, chúng tôi sử dụng UHPLC-MS/MS để xác định các chất chuyển hóa trong củ B. striata. Cuối cùng, chúng tôi định lượng thành phần chỉ số militarin trong B. striata. Chúng tôi tìm thấy sự khác biệt đáng kể trong các chất chuyển hóa của B. striata giữa các phương pháp xử lý vi sinh đất khác nhau, với các vi sinh vật đất thịt pha cát thúc đẩy sự phát triển của B. striata, trong khi các vi sinh vật đất sét pha cát làm tăng hàm lượng các chất chuyển hóa thứ cấp. Chúng tôi đã xác định các vi sinh vật cụ thể chủ yếu trong đất thịt pha cát xâm chiếm rễ và thúc đẩy sự phát triển (ví dụ: Entrophospora, Aspergillus, Fusarium). Tương tự như vậy, một số vi sinh vật trong đất thịt pha cát xâm chiếm củ và tăng cường sự phát triển của chúng (ví dụ: Sphingomonas, Hyphomicrobium). Ngoài ra, các vi sinh vật chủ yếu được tìm thấy trong đất cát xâm chiếm củ và kích thích sự tổng hợp các chất chuyển hóa thứ cấp (ví dụ: Myrmecridium, Apiotrichum montevideense). Nấm Aspergillus versicolor (B-6) được phân lập từ đất rễ cây B. striata sau khi cấy vi sinh vật đất thịt pha cát. Sau khi ủ chủng B-6 với cây con vô trùng B. striata, người ta nhận thấy B-6 có thể thúc đẩy sự phát triển của cây con  vô trùng B. striata. Phân tích của chúng tôi cho thấy vi sinh vật đất có thể xâm chiếm nhiều vùng khác nhau của B. striata, từ đó ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và sản xuất các chất chuyển hóa thứ cấp của cây. Những phát hiện này có ý nghĩa trong việc nâng cao năng suất và chất lượng của B. striata trong cả lĩnh vực y học và nông nghiệp.

Đinh Thanh Giảng

TÁI GIẢI TRÌNH TỰ VÀ PHÂN TÍCH CHỨC NĂNG CHO THẤY BSDFR4 CÓ THỂ GÂY RA SỰ HÌNH THÀNH CÁC MÀU HOA KHÁC NHAU Ở BLETILLA STRIATA (HỌ ORCHIDACEAE)

Siting Zheng và cs.

Int. J. Mol. Sci. 2025; 26: 3555

Sự hình thành màu sắc hoa có mối liên hệ chặt chẽ với quá trình tổng hợp anthocyanin. Trong nghiên cứu này, các mẫu hoa Bletilla striata (Orchidaceae) với những kiểu hình màu sắc khác nhau đã được thu thập và phân tích. Kết quả HPLC cho thấy hàm lượng flavonoid tổng số và anthocyanin trong hoa màu tím cao hơn đáng kể so với hoa màu hồng, lần lượt tăng 2,20 lần (p < 0,01) và 15,22 lần (p < 0,01). Cyanidin là anthocyanin chủ yếu trong B. striata. Phân tích tái giải trình tự đã chỉ ra SNP là dạng biến dị chính liên quan đến sự sai khác về màu sắc. Một khảo sát toàn diện đã xác định được 61 gen mã hóa các enzyme quan trọng trong con đường sinh tổng hợp flavonoid và anthocyanin ở B. striata. Trong số này, 16 gen đặc hiệu ở hoa thể hiện mức biểu hiện cao và mang biến dị SNP. Đáng chú ý, một codon kết thúc sớm đã được phát hiện trong gen mã hóa enzyme dihydroflavonol 4-reductase (DFR), dẫn đến sự tổng hợp protein bị rút ngắn và khả năng gây gián đoạn quá trình sản xuất anthocyanin. Hơn nữa, sự biểu hiện dị loài quá mức của BsDFR4 trong loài Phalaenopsis aphrodite đã làm thay đổi màu cánh hoa từ trắng sang vàng-xanh, chứng minh rằng gen này thực sự đóng vai trò điều hòa trong sự hình thành màu sắc hoa. Ngoài ra, thí nghiệm one-hybrid trên nấm men xác nhận rằng các yếu tố phiên mã BsMYB36 và BsMYB51 có thể gắn trực tiếp với vùng khởi động của BsDFR4, gợi ý sự điều hòa hiệp đồng của chúng đối với quá trình sinh tổng hợp anthocyanin. Những kết quả này đã cung cấp cơ sở lý thuyết cho việc hiểu rõ hơn cơ chế hình thành các màu hoa khác nhau trong họ Orchidaceae.

Đinh Thanh Giảng

PHÂN TÍCH TRANSCRIPTOME Ở CỦ BLETILLA STRIATA HOANG DẠI QUA NHIỀU NĂM ĐÃ LÀM SÁNG TỎ CƠ CHẾ PHÂN TỬ ĐIỀU HÒA QUÁ TRÌNH CHUYỂN HÓA POLYSACCHARIDE VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CỦ.

Hai Huan và cs

Plants. 2025; 14: 689

Bletilla striata (Thunb.) Reichb.f., còn được gọi là bạch cập trong y học cổ truyền Trung Quốc, là loài thực vật thuộc họ Lan (Orchidaceae) đã được sử dụng làm dược liệu trong hàng nghìn năm. B. striata có ý nghĩa kinh tế lớn nhờ các ứng dụng dược liệu quý giá. Nghiên cứu này nhằm phân tích transcriptome của củ bạch cập hoang dại ở các độ tuổi sinh trưởng khác nhau để làm rõ cơ chế phân tử điều hòa quá trình chuyển hóa polysaccharide và sự phát triển kích thước củ. Chúng tôi đã thu thập các mẫu bạch cập hoang dại ở nhiều giai đoạn sinh trưởng khác nhau, đồng thời phân tích thành phần hóa học bao gồm polyphenol tổng số, polysaccharide, alkaloid và protein. Kết quả cho thấy hàm lượng các hợp chất này thay đổi tùy theo độ tuổi sinh trưởng của cây. Nghiên cứu tập trung làm rõ các gen liên quan đến tuổi sinh trưởng và khả năng rút ngắn chu kỳ phát triển cây giống, điều này có nghĩa quan trọng trong bảo tồn và khai thác hiệu quả  nguồn gen bạch cập chất lượng cao. Để nghiên cứu sâu hơn về cơ chế phân tử nền tảng, chúng tôi đã tiến hành phân tích transcriptome toàn diện nhằm xác định biểu hiện gen, chú giải chức năng và xây dựng mạng lưới điều hòa liên quan đến sự phát triển cũng như thành phần hóa học của củ bạch cập. Chất lượng của dược liệu lâu năm có mối liên hệ chặt chẽ với tuổi sinh trưởng của chúng. Tuy nhiên, tình trạng khai thác quá mức nguồn tài nguyên tự nhiên đã dẫn đến việc thu hoạch sớm, gây suy giảm chất lượng và hiệu quả dược liệu. Nghiên cứu của chúng tôi cung cấp những hiểu biết quan trọng cho công tác bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên bạch cập (B. striata).

Đinh Thanh Giảng

HỆ VI SINH VẬT VÙNG RỄ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÚNG ĐẾN SỰ TÍCH LŨY CÁC CHẤT CHUYỂN HÓA Ở BẠCH CẬP (BLETILLA STRIATA (THUNB.) REICHB.F.)

Shiqing Li và cs.

BMC Plant Biology. 2024; 24:409

Bối cảnh: Bạch cập (Bletilla striata (Thunb.) Reichb. f. (B. striata)) là một loài thảo mộc lâu năm thuộc họ Lan (Orchidaceae), được biết đến với nhiều hoạt tính dược lý như thúc đẩy quá trình lành vết thương, cầm máu, chống viêm, chống oxy hóa và điều hòa miễn dịch. Tuy nhiên, mô hình điều hòa vi sinh vật – thực vật – chất chuyển hóa của bạch cập vẫn chưa được làm sáng tỏ, đặc biệt là trong mối quan hệ với hệ vi sinh vật vùng rễ. Để làm rõ mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố lý hóa của đất, hệ vi sinh vật vùng rễ và các chất chuyển hóa, nghiên cứu này đã kết hợp phân tích hệ gen (metagenome) và phân tích chuyển hóa mục tiêu (targeted metabolomics) để khảo sát đất vùng rễ và củ bạch cập thu thập từ bốn tỉnh và tám khu vực sản xuất tại Trung Quốc.

Kết quả: Nghiên cứu cho thấy hệ vi sinh vật vùng rễ lõi của B. striata chủ yếu bao gồm Paraburkholderia, Methylibium, Bradyrhizobium, ChitinophagaMycobacterium. Những chi vi sinh vật này được ghi nhận là có tiềm năng mang lại lợi ích cho sức khỏe cây. Phân tích tổng hợp chỉ ra rằng đã tồn tại mối liên hệ đáng kể giữa sự tích lũy các chất chuyển hóa như militarine và polysaccharide trong bạch cập với hệ vi sinh vật vùng rễ ở cấp độ chi. Hơn nữa, chúng tôi đã nhận thấy rằng môi trường đất ảnh hưởng gián tiếp đến hồ sơ chất chuyển hóa của bạch cập thông qua việc tác động đến hệ vi sinh vật vùng rễ. Đặc biệt, nghiên cứu này đã xác định rằng carbon hữu cơ trong đất là yếu tố chính điều khiển sự tích lũy chất chuyển hóa ở bạch cập.

Kết luận: Kết quả nghiên cứu này góp phần làm sáng tỏ về cơ chế điều hòa toàn diện liên quan đến tương tác giữa vi sinh vật – thực vật – chất chuyển hóa. Nghiên cứu này cung cấp cơ sở lý thuyết cho việc trồng trọt bạch cập chất lượng cao phục vụ y học cổ truyền Trung Quốc.

Đinh Thanh Giảng

PHÂN TÍCH GIẢI TRÌNH TỰ DE NOVO TRANSCRIPTOME LÀM SÁNG TỎ CÁC DẠNG  BIỂU HIỆN GEN Ở CÁC CƠ QUAN KHÁC NHAU VÀ CƠ SỞ PHÂN TỬ CỦA QUÁ TRÌNH TỔNG HỢP POLYSACCHARIDE Ở BẠCH CẬP (BLETILLA STRIATA)

Wenkui Liu và cs.

Genes. 2025; 16: 558

Bletilla striata (Thunb.) Rchb.f. là một loài cây thuốc lâu năm thuộc chi Bletilla, họ Lan (Orchidaceae), nổi tiếng với các tác dụng cầm máu, chống viêm và tái tạo mô. Mặc dù polysaccharide đã được biết đến là thành phần hoạt tính sinh học chính trong bạch cập (B. striata), nhưng các gen và cơ chế phân tử liên quan đến quá trình tổng hợp các hợp chất này vẫn chưa được hiểu rõ. Phương pháp: Nghiên cứu này đã thực hiện phân tích transcriptome ở rễ, củ và lá của bạch cập, nhằm xác định hồ sơ biểu hiện gen và các gen ứng viên liên quan đến quá trình tổng hợp polysaccharide ở các cơ quan khác nhau. Kết quả: Kết quả cho thấy có 7699 gen biểu hiện sai khác (DEGs) giữa củ và lá, 7695 DEGs giữa củ và rễ, và 6151 DEGs giữa củ và rễ. Các con đường chuyển hóa polysaccharide (quang hợp, chuyển hóa tinh bột và sucrose) có sự khác biệt đáng kể giữa các cơ quan. Mức độ làm giàu tổng thể của các con đường này được xếp theo thứ tự: củ > lá > rễ. Đáng chú ý, các gen mã hóa enzyme liên quan đến tổng hợp polysaccharide thể hiện tính chuyên biệt theo cơ quan: Cụ thể, các gen HK có biểu hiện cao hơn rõ rệt ở rễ so với củ và lá; các gen PMM, GMPP, pgm, UGP2 có mức biểu hiện mạnh ở củ; trong khi scrK, manA, GPI lại có mức biểu hiện tương đương ở cả ba cơ quan. Kết luận: Những phát hiện này đã xác định được các gen enzyme chủ chốt tham gia vào quá trình tổng hợp polysaccharide ở bạch cập, đồng thời cung cấp cơ sở lý thuyết cho việc nâng cao giá trị dược liệu của loài này thông qua cải tiến di truyền.

Đinh Thanh Giảng

KHÁM PHÁ BỐI CẢNH DI TRUYỀN CỦA BẠCH CẬP: NHỮNG THÁCH THỨC BẢO TỒN Ở MỘT BÀI THUỐC Y HỌC ĐANG BỊ ĐE DỌA

Weichang Huang và cs.

Global Ecology and Conservation. 2025; 59

Quần thể bạch cập, một loại cây thuốc truyền thống thiết yếu của Trung Quốc, đang suy giảm mạnh chủ yếu do tác động của con người và biến đổi khí hậu. Sự suy giảm như vậy có tác động số lượng quan trọng, có khả năng làm giảm sự đa dạng di truyền và dòng gen đồng thời đẩy loài này vào vòng xoáy tuyệt chủng. Để phát triển các chiến lược bảo tồn và sử dụng toàn diện cho bạch cập, điều cơ bản trước tiên là phải hiểu được sự đa dạng di truyền của nó. Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá sự đa dạng di truyền và cấu trúc quần thể của bạch cập để cung cấp thông tin cho các chiến lược bảo tồn bằng cách sử dụng tám locus vi vệ tinh nhân (nrSSR) và ba locus lục lạp (cpDNA). Kết quả từ nrSSR cho thấy các quần thể ở phía tây biểu hiện sự giàu alen cao hơn 35,6% so với các quần thể phía nam, trong khi phân tích cpDNA cho thấy các quần thể phía nam biểu hiện sự đa dạng kiểu gen cao gấp ba lần so với các quần thể phía tây. Độ phong phú alen không bị ảnh hưởng mạnh bởi vĩ độ (P = 0,737), nhưng độ đa dạng kiểu gen giảm 71,4% khi vĩ độ tăng (P = 0,041), cho thấy độ đa dạng kiểu gen bị ảnh hưởng mạnh bởi sự phân tán hạn chế về phía bắc. Xem xét lịch sử di cư và canh tác ở Trung Quốc, chúng tôi suy đoán rằng việc trồng trọt và nhân giống nhân tạo đã làm tăng độ phong phú alen ở các quần thể ở phía tây nhưng không làm tăng độ đa dạng kiểu gen, có thể là do sự trao đổi phấn hoa mạnh mẽ giữa các quần thể canh tác và tự nhiên. Nghiên cứu này nhấn mạnh sự cần thiết của các nỗ lực bảo tồn có mục tiêu ở vùng hạ lưu sông Dương Tử và miền nam Trung Quốc, tập trung vào việc bảo tồn độ đa dạng kiểu gen của bạch cập.

                                                                Lô Đức Việt

LẮP RÁP BỘ GENOME ĐƯỢC XỬ LÝ HAPLOTYPE TRÊN CÂY BẠCH CẬP ĐỂ LÀM TĂNG GIÁ TRỊ THUỐC

Lan Jiang và cs.

The Plant Journal. 2022; 111: 1340-1353

Bạch cập, thường được gọi là baiji, là một loài được sử dụng trong y học cổ truyền Trung Quốc; nó được đánh giá cao về các ứng dụng y học và do đó có giá trị kinh tế cao. Ở đây, chúng tôi báo cáo một bộ gen được phân giải haplotype chất lượng cao của bạch cập , haplotype A (2,37 Gb, với cấu trúc N50 là 146,39 Mb và contig N50 là 1,65 Mb) và haplotype B (2,43 Gb, với cấu trúc N50 là 150,22 Mb và contig N50 là 1,66 Mb), được lắp ráp từ các lần đọc có độ tin cậy cao (HiFi) và các lần đọc bắt giữa cấu hình nhiễm sắc thể (Hi-C). Chúng tôi phát hiện thấy bạch cập đã trải qua hai quá trình nhân đôi toàn bộ bộ gen (WGD): một quá trình WGD cổ xưa được chia sẻ bởi hầu hết các loài một lá mầm và một quá trình WGD gần đây chỉ có ở tất cả các loài lan. Chúng tôi cũng tái tạo lại nhiễm sắc thể gốc hoa lan (AOK) của 18 nhiễm sắc thể cổ đại và quỹ đạo tiến hóa của 16 nhiễm sắc thể bạch cập hiện đại. Phân tích bộ gen so sánh cho thấy rằng các họ gen mở rộng của bạch cập có thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình sinh tổng hợp chất chuyển hóa thứ cấp và thích nghi với môi trường. Bằng cách kết hợp dữ liệu bộ gen và phiên mã, chúng tôi đã xác định được 10 thành phần cốt lõi từ chín họ gen có thể liên quan đến quá trình sinh tổng hợp polysaccharide (BSP) của bạch cập. Dựa trên các thí nghiệm về sự bất động gen do vi-rút gây ra (VIGS) và lai hai loài nấm men, chúng tôi nhận thấy một yếu tố phiên mã (TF) MYB, BsMYB2, có thể điều chỉnh quá trình sinh tổng hợp BSP bằng cách tác động trực tiếp với tám gen chính liên quan đến BSP: sacA1 , HK1 , scrK1 , scrK2 , GPI1 , manA1 , GMPP1 và UGP2_1 . Nghiên cứu của chúng tôi sẽ nâng cao hiểu biết về quá trình tiến hóa của họ Lan và đẩy nhanh quá trình lai tạo bạch cập bằng công nghệ phân tử nhằm cải thiện các đặc điểm có giá trị về mặt y học.

                                                                 Lô Đức Việt

CHỦNG NẤM NẤM RỄ CỘNG SINH BJ1, MỘT LOÀI MỚI CỦA CHI TULASNELLA SP.: ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ TÁC DỤNG THÚC ĐẨY SỰ NẢY MẦM CỦA HẠT BẠCH CẬP

Zhengmei Li và cs.

Front. Plant Sci. 2025; 16

Nấm rễ cộng sinh đã được chứng minh là thúc đẩy sự nảy mầm của hạt và sự phát triển của cây con ở họ Lan. Trong nghiên cứu hiện tại, một loại nấm rễ cộng sinh được xác định là chủng BJ1 đã được phân lập từ rễ của cây bạch cập. Qua phản ứng nhuộm huỳnh quang và phân tích hình thái cho thấy loài nấm này biểu hiện các đặc điểm rất giống với đặc điểm của chi Tulasnella. Sau đó, chủng này được xác nhận là một chủng mới của chi Tulasnella thông qua giải trình tự và phân tích phát sinh loài của bốn locus: vùng đệm phiên mã nội bộ ITS1-ITS4 (ITS), ATP synthase (C14436), glutamate synthase (C4102) và ATP deconjugase (C3304). Ngoài ra, chúng tôi đã nghiên cứu hoạt động sinh học in vitro của chủng BJ1 và tác động của chúng đối với sự nảy mầm và phát triển của hạt bạch cập. Kết quả chỉ ra rằng chủng BJ1 có khả năng sản xuất các enzyme phân hủy tế bào thực vật, bao gồm pectinase và protease. Hơn nữa, nó thể hiện khả năng hòa tan phốt pho vô cơ và tổng hợp axit indole acetic (IAA). Tuy nhiên, chủng nấm này không biểu hiện hoạt động laccase hoặc có khả năng sản xuất siderophore, cũng không thể hòa tan phốt pho hữu cơ. Qua quan sát dưới kính hiển vi cho thấy chủng BJ1 chủ yếu cư trú ở phần gốc của thể mầm (protocorm) của bạch cập, qua đó nấm này hỗ trợ tăng cường sự nảy mầm, sinh trưởng và phát triển của hạt. Đáng chú ý, đến tuần thứ tư của quá trình nảy mầm, 74,23% hạt trong nhóm cộng sinh đã phát triển đến giai đoạn 5, tỷ lệ cao hơn đáng kể so với 50,43% ở nhóm không cộng sinh. Ngoài ra, chiều dài, chiều rộng và trọng lượng tươi của hạt trong nhóm cộng sinh lớn hơn lần lượt là 2,2 lần, 1,8 lần và 3,7 lần so với nhóm không cộng sinh. Hơn nữa, bằng cách bổ sung L-tryptophan làm cơ chất trong quá trình đồng nuôi cấy với chủng BJ1, khả năng tổng hợp IAA đã được cải thiện đáng kể; Điều này cũng dẫn đến sự tăng tốc đáng kể quá trình nảy mầm cộng sinh của hạt giống bạch cập. Những kết quả này cho thấy chủng BJ1 có tiềm năng đáng kể để ứng dụng trong nhân giống chọn tạo cây giống bạch cập. Nó có thể nâng cao hiệu quả nhân giống và cải thiện chất lượng cây giống, từ đó đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển bền vững nguồn gen của các loài lan đang bị đe dọa. 

Lô Đức Việt

ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP SẤY KHÁC NHAU ĐẾN HÌNH THÁI, CẤU TRÚC VI MÔ VÀ CÁC THÀNH PHẦN HOẠT TÍNH SINH HỌC CỦA CỦ BẠCH CẬP

Lihong Li và cs.

Food and Bioprocess Technology. 2024; 17: 3746–3756

Bạch cập (Bletilla striata ) được sử dụng rộng rãi như thực phẩm bổ sung và dược liệu có chức năng cầm máu, chống loét, thúc đẩy chữa lành vết thương, kháng khuẩn, chống viêm và điều hòa miễn dịch. Phương pháp sấy ảnh hưởng đến chất lượng của  thảo dược, bao gồm cả hình thức bên ngoài và quan trọng hơn là hàm lượng các thành phần hoạt tính, đóng vai trò quyết định trong chức năng y học và thực phẩm bổ dưỡng. Trong nghiên cứu này, sấy không khí nóng (HD), sấy hồng ngoại (ID), sấy vi sóng (MD), sấy chân không (VD) và sấy đông khô (FD) đã được sử dụng để đánh giá tác động của các phương pháp sấy đến chất lượng củ  bạch cập.

 Ảnh hưởng của các phương pháp sấy đến hình thức bên ngoài, màu sắc, cấu trúc vi mô, hoạt độ nước, hàm lượng nước và hàm lượng thành phần hoạt tính của củ bạch cập được theo dõi. Các mẫu được xử lý bằng FD vẫn giữ được phần lớn hình thức bên ngoài, màu sắc và cấu trúc vi mô, trong khi các mẫu được xử lý bằng các phương pháp khác có nhiều biến đổi và màu sắc khác nhau. Ngoài ra, hàm lượng nước và hoạt tính nước giảm đáng kể đã được phát hiện trong các mẫu được xử lý bằng FD, tuy nhiên, hàm lượng các hoạt chất, chẳng hạn như polysaccharid bạch cập, polyphenol tổng số và militarine tương đối cao. Sau khi so sánh, sấy đông khô được đề xuất là phương pháp phù hợp nhất để sấy củ bạch cập, và phương pháp này cũng được khuyến nghị cho việc sấy các loại củ khác.

                                                               Lô Đức Việt

BẠCH CẬP: TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG PHÁP NHÂN GIỐNG CÂY CON VÀ PHƯƠNG PHÁP CANH TÁC

Man Zhang và cs.

PubMed Central. 2019; 25(3): 601–609

Trong những năm gần đây, nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế đối với bạch cập đã tăng nhanh chóng do dược liệu này được sử dụng rộng rãi trong y tế, dược phẩm, hóa chất, sức khỏe, thẩm mỹ và những lĩnh vực khác. Nhu cầu sử dụng ngày càng tăng, cùng với sự khan hiếm nguồn nguyên liệu từ tự nhiên đã dẫn đến việc phát triển các mô hình trồng trọt trên quy mô lớn. Dựa trên kết quả nghiên cứu của chúng tôi và các tài liệu liên quan, bài báo này mô tả đặc điểm thực vật của cây bạch cập, các kỹ thuật nhân giống cây con và các phương thức canh tác chính, đồng thời thảo luận một số vấn đề trong quy trình sản xuất bạch cập. Nghiên cứu này sẽ cung cấp tài liệu tham khảo cho việc phát triển phương thức nhân giống, trồng trọt và thúc đẩy quảng bá bạch cập.

                                                                Lô Đức Việt

ẢNH HƯỞNG CỦA CHE NẮNG ĐẾN ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ CỦA BLETILLA STRIATA

Hanyue Xue và cs.

Functional Plant Biology. 2025; 52(7)

Bletilla striata là một loại cây che phủ mặt đất phát triển mạnh trong môi trường mát mẻ, ẩm ướt. Nó có các ứng dụng làm vườn và sinh thái tiềm năng có thể được hưởng lợi từ việc tối ưu hóa các kỹ thuật canh tác ngoài trời bằng cách hiểu các yêu cầu về ánh sáng và cơ chế thích nghi của nó. Nghiên cứu này đã kiểm tra tác động của các mức độ che bóng khác nhau đến sự phát triển và phản ứng quang hợp của B. striata . Kết quả cho thấy che bóng vừa phải cải thiện sự phát triển, tăng hàm lượng diệp lục và giảm căng thẳng oxy hóa. Sự thay đổi theo mùa về lượng nước có sẵn cũng ảnh hưởng đến sự tích tụ các loài oxy phản ứng (ROS) và hoạt động của enzyme chống oxy hóa, đặc biệt là trong thời kỳ cung cấp nước giảm. Hơn nữa, che bóng vừa phải tăng cường hiệu suất quang hợp bằng cách tăng tốc độ vận chuyển điện tử (ETR), dập tắt quang hóa (qP) và dập tắt không quang hóa (NPQ), làm giảm hiệu quả sự ức chế quang học. Tóm lại, che bóng vừa phải tăng cường sự phát triển và khả năng chịu đựng stress của B. striata , thiết lập nền tảng khoa học để cải thiện các phương pháp canh tác trong bối cảnh làm vườn và sinh thái.

                                                     Nguyễn Đức Mạnh

ẢNH HƯỞNG CỦA THỜI ĐIỂM THU HOẠCH ĐẾN NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG CỦA BẠCH CẬP

Wang Jie và  cs.

Acta Physiologiae Plantarum. 2024; 46: 107

Bạch cập (Bletilla striata) là một loại thảo mộc lâu năm thuộc họ Lan với sử dụng củ trong y học, thực phẩm, hóa học và mỹ phẩm. Polysaccharid, phenolic tổng số và militarine là các thành phần hoạt tính sinh học chính của bạch cập đã được sử dụng rộng rãi để điều trị nôn ra máu, ho ra máu và chảy máu do chấn thương do hiệu quả cầm máu bằng tác dụng làm khô vết thương. Vì năng suất và chất lượng của dược liệu có liên quan chặt chẽ đến thời điểm thu hoạch, nên việc lựa chọn thời điểm thu hoạch bạch cập tối ưu có ý nghĩa rất lớn. Trong nghiên cứu này, tác dụng của bốn thời điểm thu hoạch khác nhau của bạch cập 2 năm tuổi đã được so sánh dựa trên các đặc điểm hình thái và hàm lượng hoạt chất hoạt tính sinh học của chúng. Kết quả cho thấy khối lượng tươi và tốc độ sấy của bạch cập không có sự khác biệt đáng kể giữa bốn thời điểm thu hoạch khác nhau. Tuy nhiên, hàm lượng polysaccharide B. striata (BSP) ban đầu giảm và sau đó dần ổn định khi thời điểm thu hoạch được kéo dài. Hàm lượng phenolic tổng số và militarine trong B. striata thu hoạch ngày 23 tháng 9 là cao nhất. Sau khi xem xét toàn bộ chất lượng và năng suất của bạch cập, kết quả cho thấy việc thu hoạch bạch cập vào cuối tháng 9 là hợp lý hơn.

                                                     Nguyễn Đức Mạnh

TRÌNH TỰ BỘ GEN LỤC LẠP HOÀN CHỈNH CỦA BLETILLA STRIATA (THUNB.) REICHB.F, MỘT LOÀI CÂY THUỐC GAN GIAN TRUNG QUỐC

Cai Ziping và cs.

Mitochondrial DNA Part B.2020. 5, 2020(3): 2239-2240

Bletilla striata (Thunb.) Reichb. f. là một trong những loại thuốc y học cổ truyền Trung Quốc thường được sử dụng củ làm thuốc. Chúng tôi báo cáo ở đây trình tự bộ gen lục lạp hoàn chỉnh của Bletilla striata (Thunb.) Reichb. f. Trình tự này có chiều dài 159.491 bp, chứa một vùng bản sao đơn nhỏ (SSC) dài 18.778 bp và một vùng bản sao đơn lớn (LSC) dài 87.139 bp, được phân tách bằng hai bản sao của một đoạn lặp lại đảo ngược (IR) dài 26.787 bp. Bộ gen lục lạp chứa 114 gen riêng biệt, bao gồm 80 gen PCG, 30 gen tRNA và 4 gen rRNA. Ngoài ra, 18 gen chứa một hoặc hai intron, trong số đó bao gồm 10 gen PCG có một intron và 2 gen PCG chứa hai intron; và 6 gen tRNA chứa một intron. Trong nghiên cứu này, Bletilla stariata là loài chị em với Bletilla formosana và được xếp vào nhóm gồm các loài thuộc họ Lan (Orchiidaceae).

                                                     Nguyễn Đức Mạnh

CẢM ỨNG VÀ ĐẶC TRƯNGCỦA THỂ TỨ BỘI TỪ HẠT CỦA BLETILLA STRIATA (THUNB.) REICHB.F

Meiya Li và cs.

BioMed Research International. 2018; (1/3246398): 8

 Bletilla striata (Thunb.), một loài cây cảnh và dược liệu, nằm trong danh sách các loài thực vật có nguy cơ tuyệt chủng ở Trung Quốc. Thân rễ của nó chứa nhiều polysaccharide và đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ trước như một loại thuốc thảo dược. Tuy nhiên, gần đây nhu cầu nó tăng cao nên đã đặt nó vào nguy cơ tuyệt chủng, do đó, việc nghiên cứu về nhân giống và cải thiện di truyền của nó là rất cần thiết. Vì các thể đa bội thường sở hữu những đặc tính có lợi, chúng tôi đã ủ hạt giống B. striata với colchicine với mục đích tạo ra các cây con tứ bội. Hạt giống được xử lý vô trùng bằng colchicine 0,1% trong 7 ngày cho thấy tỷ lệ cảm ứng tứ bội cao nhất là 40,67 ± 0,89%. So với kiểu hoang dại, các thể tứ bội có thể được nhận biết thông qua các đặc điểm hình thái của chúng bao gồm khí khổng lớn hơn với mật độ thấp hơn, phiến lá lớn hơn và cuống lá dày hơn. Hàm lượng polysaccharide và các hợp chất phenolic cũng được xác định trong củ giả hành tứ bội, cho thấy các giá trị cao hơn đáng kể so với kiểu hoang dại. Do đó, phương pháp xử lý colchicine in vitro  có thể được sử dụng để sản xuất thành công cây tứ bội B. striata có năng suất thân rễ cao.

                                                     Nguyễn Đức Mạnh

XÁC ĐỊNH VÀ PHÂN TÍCH BỘ GEN SO SÁNH CỦA NẤM NỘI SINH TRONG CÂY BẠCH CẬP VÀ TIỀM NĂNG CỦA NÓ TRONG VIỆC KHẢ NĂNG TĂNG CƯỜNG TÍCH LUỸ SINH HỌC CỦA HỢP CHẤT MILITARINE

Xueyan Jia và cs

Fitoterapia. 2025; 181: 106356

Cây bạch cập được biết đến rộng rãi với các ứng dụng trong y học cổ truyền và các đặc tính dược lý da dạng, có liên quan chặt chẽ với hợp chất militarine. Việc đảm bảo sản xuất bền vững giữa bạch cập và militarin đòi hỏi tiếp cận công nghệ sinh học mang tính đổi mới. Nấm nội sinh, sống cộng sinh trong mô thực vật, được xem như bộ gen thứ cấp của thực vật có khả năngđồng điều hòa sinh trưởng và tổng hợp chất chuyển hóa thứ cấp của thực vật. Mặc dù có tiềm năng, sự đa dạng về di truyền và chuyển hóa, hoạt động chức năng và tương tác điều hòa của nấm nội sinh với bạch cập vẫn chưa được hiểu rõ. Nghiên cứu này nhằm mục đích thu hẹp khoảng cách này bằng cách nghiên cứu các loại nấm nội sinh có thể tăng khả năng sinh trưởng và sinh tổng hợp militarine của bạch cập. Kết quả cho thấy nấm nội sinh từ giả hành, rễ và thân được nuôi cấy đồng thời với mô sẹo của bạch cập, và người ta phát hiện ra rằng Serendipita indica từ chi Serendipita có thể tăng cường tích lũy militarine rõ rệt. Sau đó, các gen chính, enzyme quan trọng và các yếu tố điều hòa liên quan đến quá trình sinh tổng hợp militarine trong bộ gen S. indica đã được phân tích. Bằng cách sử dụng các phương pháp tiếp cận công nghệ sinh học tiên tiến và so sánh bộ gen, chúng tôi đã làm sáng tỏ thành phần và sự phân bố của các yếu tố điều hòa trên các bộ gen nấm nội sinh khác nhau liên quan đến bạch cập. Nghiên cứu này không chỉ góp phần nâng cao hiểu biết về mối quan hệ cộng sinh giữa bạch cập và nấm nội sinh,mà còn cung cấp một bản thiết kế cơ bản cho việc khai thác và tăng cường sản xuất militarine một cách bền vững trong tương lai.

                                                       Đào Xuân Quang

ĐÁNH GIÁ TỔNG HỢP VỀ SỰ PHÙ HỢP CỦA MÔI TRƯỜNG SỐNG VÀ DỰ ĐOÁN KHÔNG GIAN VỀ CHẤT LƯỢNG DƯỢC LIỆU BẠCH CẬP BẰNG CÁCH SỬ DỤNG CÁC MÔ HÌNH PHÂN BỐ LOÀI VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP HỌC MÁY

Kai-lang Mu và cs.

Industrial Crops and Products. 2025; 236, 121937

Bạch cập có giá trị quan trọng trong y học cổ truyền Trung Quốc và được ứng dụng rộng rãi trong dược phẩm, chăm sóc sức khỏe và mỹ phẩm. Các đặc tính dược liệu độc đáo và nhu cầu thị trường ngày càng tăng đã thúc đẩy việc trồng trọt bạch trên quy mô lớn; tuy nhiên, điều này cũng dẫn đến sự biến động không gian rõ rệt về chất lượng dược liệu, đồng thời làm suy giảm nguồn tài nguyên tự nhiên. Để giải quyết thách thức này đòi hỏi một khung đánh giá có tính hệ thống. Nghiên cứu này tích hợp các mô hình phân bố loài (Maxent và biomod2), định lượng các hoạt chất, phân tích thành phần chính (PCA), hồi quy bình phương tối thiểu từng phần (PLSR), và hơn mười thuật toán học máy bao gồm XGBoost để đánh giá bạch cập trên ba khía cạnh: mức độ thích hợp sinh thái, sự biến động về thành phần hóa học, và cơ chế tác động của môi trường. Kết quả cho thấy mô hình biomod2 có hiệu năng vượt trội hơn Maxent trong dự đoán mức độ thích hợp sinh cảnh hiện tại và tương lai, đồng thời xác định các khu vực Tây Nam như Quý Châu và Tứ Xuyên là vùng lõi có mức độ thích hợp cao. Phân tích định lượng các mẫu dược liệu được trồng từ những khu vực khác nhau cho thấy sự khác biệt lớn về hàm lượng phenolic glycosides và polysaccharide, với hệ số biến thiên lên đến 48,31 %. Phân tích tương quan Pearson và PLSR cho thấy các yếu tố đất như hàm lượng selen, độ pH, natri trao đổi, mật độ đất, tỷ lệ sỏi và hàm lượng bùn sét đóng vai trò chi phối trong sự tích lũy các hợp chất có hoạt tính. Một mô hình phân loại chất lượng dựa trên XGBoost đã được xây dựng và chồng ghép với bản đồ thích hợp sinh cảnh, qua đó phân chia thành năm vùng: vùng lõi, vùng tăng cường, vùng củng cố, vùng đệm và vùng phổ thông. Khung đánh giá tổng hợp này cung cấp cơ sở khoa học cho công tác bảo tồn, trồng trọt chất lượng cao và sử dụng bền vững bạch cập. Hơn nữa, khung phương pháp đổi mới này – kết hợp mô hình sinh thái với học máy trong đánh giá chất lượng – mang lại một tài liệu tham khảo có giá trị cho phát triển bền vững và quản lý chất lượng các loài cây thuốc khác.

                                                      Đào Xuân Quang

DỰ ĐOÁN CÁC SINH CẢNH TIỀM NĂNG THÍCH HỢP CỦA BẠCH CẬP TẠI TRUNG QUỐC DƯỚI CÁC KỊCH BẢN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TƯƠNG LAI BẰNG MÔ HÌNH MAXENT TỐI ƯU HÓA

Ming Luo và cs.

Scientific report. 2025; 15: 21231

Bạch cập, một nguồn dược liệu quan trọng trong y học cổ truyền Trung Quốc, có giá trị cao cả về dược tính và giá trị cảnh quan. Tuy nhiên, việc lựa chọn sinh cảnh nuôi trồng thiếu cơ sở khoa học đã dẫn đến năng suất thấp và chất lượng dược liệu kém tại Trung Quốc. Mô hình MaxEnt được tối ưu hóa là một công cụ mạnh mẽ để phân tích tác động tiềm năng của các yếu tố môi trường đối với phân bố loài, cũng như dự đoán sự thay đổi sinh cảnh dưới tác động của biến đổi khí hậu. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với công tác bảo tồn và phát triển bạch cập ở Trung Quốc.

Dựa trên 269 điểm ghi nhận phân bố bạch cập tại Trung Quốc và 15 yếu tố môi trường chủ yếu, nghiên cứu này đã mô phỏng các mô hình phân bố sinh cảnh tiềm năng thích hợp của bạch cập dưới bốn kịch bản biến đổi khí hậu (SSP1-2.6, SSP2-4.5, SSP3-7.0 và SSP5-8.5) và ba giai đoạn thời gian (hiện tại, thập niên 2050 và thập niên 2070). Phân tích được thực hiện bằng mô hình MaxEnt cho thấy độ chính xác dự báo cao và hiện tượng quá khớp ở mức tối thiểu. Bức xạ mặt trời, biên độ nhiệt độ năm và biên độ nhiệt độ trung bình ngày được xác định là các yếu tố chi phối chính đối với sự phân bố bạch cập, với các ngưỡng lần lượt là ≤ 16.265,39 kJ/m²·ngày, ≤ 39,7℃ và ≤ 12,6℃.

Kết quả nghiên cứu cho thấy tổng diện tích sinh cảnh tiềm năng thích hợp của bạch cập ở Trung Quốc dưới điều kiện khí hậu hiện tại là 30,07 × 10⁵ km², chủ yếu phân bố tại 14 tỉnh hoặc khu vực ở miền Nam Trung Quốc. Dưới tác động của biến đổi khí hậu trong tương lai, diện tích sinh cảnh thích hợp dự báo sẽ giảm đáng kể theo thời gian, và tâm phân bố của các sinh cảnh tiềm năng ở tất cả các mức độ thích hợp sẽ dịch chuyển về phía Bắc. Các kết quả này cung cấp cơ sở khoa học để định hướng công tác bảo tồn nguồn gen, chọn giống và phát triển nuôi trồng bạch cập trong tương lai.

                                                       Đào Xuân Quang

 

 

(Nguồn tin: Viện Dược liệu)